Chủ Nhật, 31 tháng 1, 2010

Mâm ngũ quả trong ngày Tết của người Việt

VIT - Mâm ngũ quả mà ta thường thấy trên bàn thờ mọi gia đình Việt không chỉ làm cho ngày Tết thêm sinh động mà còn mang nhiều ý nghĩa thiêng liêng.

Theo thuyết duy vật cổ đại, tất cả mọi vật chất đều được tạo nên bởi 5 yếu tố ban đầu gồm: kim loại (kim), gỗ (mộc), nước (thủy), lửa (hỏa) và đất (thổ) - gọi là ngũ hành. Tư tưởng này xâm nhập sâu sắc vào đời sống văn hóa của các dân tộc phương Đông. Tục lệ chưng mâm ngũ quả trên bàn thờ ngày Tết của người Việt Nam là một trong những biểu hiện của tư tưởng này.

Mâm ngũ quả là mâm trái cây có năm loại quả khác nhau. Tùy theo đặc điểm tự nhiên, phong tục tập quán và quan niệm, người dân mỗi vùng, miền có cách chọn các loại quả đặc trưng mang ý nghĩa riêng.

Nếu căn cứ theo màu sắc trong triết lý phương Đông thì mâm ngũ quả phải có 5 loại quả với 5 màu khác nhau:

Đầu tiên là chuối xanh - ứng với mùa xuân (hành mộc). Nải chuối như bàn tay ngửa, hứng lấy những gì tinh túy nhất của mùa xuân để đọng thành quả ngọt; nó còn có ý nghĩa che chở, bao bọc.

Thứ hai là quả Phật thủ màu vàng – tượng trưng hành thổ nên được đặt ở giữa, trong lòng nải chuối. Phật thủ là loại quả có mười cánh múi chụm lên như 10 ngón tay nên dân gian gọi là tay Phật. Phật thủ được trưng lên bàn thờ với niềm cầu mong được bàn tay Phật trời ban phúc lộc. Nếu không tìm được Phật thủ, có thể thay bằng quả bưởi chín vàng, cũng mang ý nghĩa tương tự.

Tiếp theo, 3 loại quả khác có các màu đỏ (ứng với mùa hạ - hành hỏa) như ớt sừng, cam - quýt chín, trứng gà, hồng…; màu trắng (ứng với mùa thu – hành kim) như roi, đào; màu đen (ứng với mùa đông – hành thủy) như mận, hồng xiêm…

Nếu như ở miền Bắc, hầu như tất cả các loại quả đều có thể bày lên bàn thờ, kể cả quả ớt mang vị cay đắng, miễn sao mâm ngũ quả trông đẹp mắt là được; thì người miền Nam lại có sự kiêng cữ. Mâm ngũ quả của người miền Nam không bao giờ có chuối, vì loại quả này tên gọi có âm giống từ “chúi”, thể hiện sự nguy khó. Quả cam cũng không được có mặt trong mâm ngũ quả ngày Tết, vì câu “quýt làm cam chịu”…

Bàn thờ là nơi trang trọng nhất trong mỗi gia đình, mỗi căn hộ, là nơi để tâm linh mỗi người ước nguyện hướng tới những gì tốt đẹp hơn. Tết nếu thiếu bàn thờ thì cái hoang tàn xô đến, niềm cô quạnh dâng đầy, và hình như ta không còn là người dân Việt nghìn năm trọng tình, hiếu nghĩa, biết ơn tiên tổ nữa. Bàn thờ có chân đèn, chân nến, đỉnh đồng, đài nước, hộp sắc vua phong, tam sự hay ngũ sự... Và ngày Tết, không thể thiếu hương sắc, hình ảnh của mâm ngũ quả.

Mâm ngũ quả làm cho quang cảnh Tết và không gian thờ cúng trong mỗi gia đình Việt thêm ấm áp, rực rỡ mà hài hòa; thể hiện sinh động ý nghĩa triết học - tín ngưỡng - thẩm mỹ, đồng thời cũng chứa đựng ước vọng của con người.

TD (Tổng hợp)

Những phong tục tập quán trong ngày tết cổ truyền

Tết Việt Nam chứa đựng và mang đậm bản sắc của dân tộc. Trải qua bao biến động của lịch sử, của thời gian nhưng người Việt vẫn gìn giữ được những phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc trong ngày tết

Chợ Tết

Chợ Tết có không khí khác hẳn với những phiên chợ thường ngày trong năm. Mua sắm chuẩn bị cho ba ngày Tết thường không phải để “có cái ăn” mà đó là thói quen, là dậy lên không khí ngày lễ hội. Chợ Tết được bố trí ở những bãi đất rộng, có thể chợ được thành lập ngay nơi chợ thường ngày vẫn diễn ra chuyện bán mua. Nhưng trong chợ Tết, gần như tất cả “món ngon vật lạ” đều được bày bán. Không khí Tết thấm đượm thật sự vào những ngày này bởi cảnh người mua hàng nặng trĩu giỏ.

Trong chợ Tết, người ta mới bày bán những thứ mà quanh năm không thấy bán. Ví dụ như lá dong, lá chuối để gói bánh chưng, củ kiệu, đu đủ làm dưa. Người ta bán những chiếc tháp làm bằng bánh in bao giấy màu, những chiếc bánh ly bằng bột nếp hoặc bánh ngũ sắc dùng để chưng lên bàn thờ. Chợ còn bán những thứ không ăn được, nhưng vô cùng cần thiết cho ngày Tết như phong bao lì xì, giấy dán và bây giờ phong trào viết chữ ngày Tết đang phục hồi trở lại. Nhưng cái thú mua sắm trong ngày Tết vẫn là chuyện đương nhiên, gần như không một nhà nào lại không “đi sắm Tết”.
Dẫu rằng cách ăn, cách chơi Tết trải qua bao năm đã thay đổi cho phù hợp với cuộc sống. Điều độc đáo ở chỗ là dù nhà giàu hay nghèo, nhu cầu mua sắm ngày Tết là điều không thế thiếu.

Cây nêu ngày Tết

Cây nêu là một cây tre cao khoảng 5–6 mét. Ở ngọn thường treo nhiều thứ (tùy theo từng điạ phương) như vàng mã, bùa trừ tà, cành xương rồng, bầu rượu bện bằng rơm, hình cá chép bằng giấy (để táo quân dùng làm phương tiện về trời), giải cờ vải tây, điều (màu đỏ), đôi khi người ta còn cho treo lủng lẳng những chiếc khánh nhỏ bằng đất nung, mỗi khi gió thổi, những khánh đất va chạm nhau tại thành những tiếng kêu leng keng nghe rất vui tai… Người ta tin rằng những vật treo ở cây nêu, cộng thêm những tiếng động của những khánh đất, là để báo hiệu cho ma quỷ biết rằng nơi đây là nhà có chủ, không được tới quấy nhiễu…

Vào buổi tối, người ta treo một chiếc đèn lồng ở cây nêu để tổ tiên biết đường về nhà ăn Tết với con cháu. Vào đêm trừ tịch còn cho đốt pháo ở cây nêu để mừng năm mới tới, xua đuổi ma quỷ hoặc những điều không maỵ. Cây nêu thường được dựng vào ngày 23 tháng chạp, là ngày Táo quân về trời chính vì từ ngày này cho tới đêm Giao thừa vắng mặt Táo công, ma quỷ thường nhân cơ hội này lẻn về quấy nhiễu, nên phải trồng cây nêu để trừ tà. Đến hết ngày mùng Bảy thì cây nêu được hạ xuống.

Câu đối tết

Để trang hoàng nhà cửa và để thưởng Xuân, trước đây từ các nho học cho tới những người bình dân “tồn cổ” vẫn còn trọng tục treo “câu đối đỏ” nhân ngày Tết. Những câu đối này được viết bằng chữ Nho (màu đen hay vàng) trên những tấm giấy đỏ hay hồng đào cho nên thường được gọi chung là câu đối đỏ.

Hoa tết

Miền Bắc thường chọn cành đào đỏ để cắm trên bàn thờ hoặc cây đào trang trí trong nhà, theo quan niệm người Trung Quốc, đào có quyền lực trừ ma và mọi xấu xa, màu đỏ chứa đựng sinh khí mạnh, màu đào đỏ thắm là lời cầu nguyện và chúc phúc đầu xuân.
Miền Trung và miền Nam lại hay dùng cành mai vàng hoặc cây mai vàng hơn, màu vàng tượng trưng cho sự cao thượng vinh hiển cao sang, màu vàng còn tượng trưng cho vua (thời phong kiến). Màu vàng thuộc hành Thổ trong Ngũ hành, theo quan điểm người Việt, Thổ nằm ở vị trí trung tâm và màu vàng được tượng trưng cho sự phát triển nòi giống.

Ngoài hai loại hoa đặc trưng cho Tết là đào và mai, hầu như nhà nào cũng có thêm những loại hoa để thờ cúng và hoa trang trí. Hoa thờ cúng có thể như hoa vạn thọ, cúc, lay ơn, hoa huệ…; hoa để trang trí thì muôn màu sắc như hoa hồng, hoa thuỷ tiên, hoa lan, hoa thược dược, hoa violet…Còn cây quất thường được trang trí tại phòng khách, cây quất với lộc xanh mơn mởn, hoa trắng lốm đốm, quả chín vàng ươm, tròn trịa, sum suê tượng trưng cho sự sinh sôi, thịnh vượng, tràn đầy, viên mãn kết quả.

Màu của ngày Tết

Chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc, màu chủ lực trong ngày Tết vẫn là màu đỏ theo quan niệm màu đỏ là màu phát tài và may mắn. Ngày Tết của Việt Nam ngập tràn màu đỏ: câu đối đỏ, phong bao lì xì đỏ, ruột quả dưa hấu đỏ, hạt dưa nhuộm màu đỏ, quyển lịch đỏ. Người Việt Nam cũng thích chưng những loại hoa ánh đỏ như hồng, mãn đình hồng, hoa đào v.v… Trước đây khi pháo còn được cho phép đốt, đường xá ngập tràn trong màu đỏ của xác pháo nổ rân không ngớt kể từ giao thừa đến rạng sáng tết, rồi nổ lẻ tẻ mãi cho đến khi nào hết “mồng” mới thôi!
Trang phục có tông màu đỏ cũng được ưa chuộng để mặc Tết.

Lễ tổ tiên ngày tết

Người Việt Nam có tục hằng năm mỗi khi Tết đến lại trở về sum họp dưới mái ấm gia đình. Nhiều người muốn được khấn vái trước bàn thờ, thăm lại ngôi mộ hay nhà thờ tổ tiên. Nhiều người cũng muốn thăm lại nơi họ đã từng sinh sống với gia đình trong thời niên thiếu. Đối với nhiều người xuất thân từ nông thôn Việt Nam, kỷ niệm thời niên thiếu có thể gắn liền với giếng nước, mảnh sân nhà. “Về quê ăn Tết” đã trở thành thành ngữ chỉ cuộc hành hương về nơi cội nguồn.
Sắp dọn bàn thờ – Trong gia đình người Việt thường có một bàn thờ tổ tiên, ông bà (hay còn gọi ông Vải).

Tuỳ theo từng nhà, cách trang trí và sắp đặt bàn thờ khác nhau. Biền, bàn thờ là nơi tưởng nhớ, là thế giới thu nhỏ của người đã khuất. Hai cây đèn tượng trưng cho mặt trời, mặt trăng, hương là tinh tú. Hai bát hương để đối xứng, phía sau 2 cây đèn thường có hai cành hoa cúc giấy, với nhiều bông nhỏ bao quanh bông lớn. Cũng có nhà cắm “cành vàng lá ngọc” (một thứ hàng mã) với cầu mong làm ăn được quả vàng, quả bạc, buôn bán lãi gấp 5, gấp 10 lần năm trước. Ở giữa có trục “vũ trụ” là khúc trầm hương dưới dạng khúc khuỷu, vươn lên trong bát hương.

Nhiều gia đình đặt xen giữa đèn và hương là hai cái đĩa để đặt hoa quả lễ gọi là mâm ngũ quả (tuỳ mỗi miền có sự biến thiên các loại quả, nhưng mỗi loại quả đều có ý nghĩa của nó), phía trước bát hương để một bát nước trong, coi như nước thiêng. Hai cây mía đặt ở hai bên bàn thờ là để các cụ chống gậy về với con cháu, dẫn linh hồn tổ tiên từ trên trời về hạ giới…

Trước bàn thờ nghi lễ truyền thống, ăn mặc lễ phục chỉnh tề, cử chỉ nghiêm trang, dọn lòng trong sạch hướng tâm linh cúng lạy, nguyện sống xứng đáng với ”bề trên”. Sự tín ngưỡng ấy đã góp phần tạo thêm giá trị nhân văn, đạo đức truyền thống, bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc. Sự thờ cúng tổ tiên mách bảo con cháu giữ gìn đạo lý, nề nếp gia phong, sống tình nghĩa thủy chung, tu thân, hướng thiện. Thực tâm cầu thị, yêu đồng loại, sâu nặng cội nguồn…

Dọn cúng mâm cao cỗ đầy. Tề tựu đông đủ. Với các món nấu nướng gia truyền, dâng cúng là những sản phẩm nông nghiệp. Hoa tươi, rượu nếp gạo nấu tinh khiết. Bánh trái, ngũ cốc, thịt gà, heo… Nấu nướng thơm ngon đặt lên cúng trên bàn thờ. Để ông bà yên lòng nhìn thấy các cháu con biết giữ gìn truyền thống ”dĩ nông vi bản” và đem sức lao động cần cù làm ra thành quả từ lòng đất quê hương của ông cha để lại. Đây chính là nét văn hóa truyền thống góp phần bảo tồn di sản tinh thần và đạo đức trong đời sống con người lưu truyền tự ngàn xưa.

Xuất hành và hái lộc ngày Tết : “Xuất hành” là đi ra khỏi nhà trong ngày đầu năm để đi tìm cái may mắn cho mình và gia đình. Trước khi xuất hành, người ta phải chọn ngày, giờ và các phương hướng tốt để mong gặp được các quý thần, tài thần, hỉ thần… Nếu xuất hành ra chùa hay đền, sau khi lễ bái, người Việt còn có tục bẻ lấy một “cành lộc” để mang về nhà lấy may, lấy phước. Đó là tục “hái lộc”. Cành lộc là một cành đa nhỏ hay cành đề, cành si… là những loại cây quanh năm tươi tốt và nẩy lộc. Tục hái lộc ở các nơi đền, chùa ngụ ý xin hưởng chút lộc của Thần, Phật ban cho nhân năm mới. Cành lộc thường đem về cắm ở bàn thờ. Khác với miền Bắc, miền Trung không có tục hái lộc đầu năm nhờ thế mà cây cối trong các đền chùa ở miền Trung vẫn giữ nguyên lá xanh biếc suốt cả mùa xuân.
Để gắn kết tình cảm gia đình, họ hàng , làng xóm những lời chúc tết thường là sức khoẻ, phát tài phát lộc, gặp nhiều may mắn, mọi ước muốn đều thành công…; những người năm cũ gặp rủi ro thì động viên nhau “tai qua nạn khỏi” hay “của đi thay người” nghĩa là trong cái họa cũng tìm thấy cái phúc, hướng về sự tốt lành.

Chúc Tết: Sáng mồng Một Tết còn gọi là ngày Chính đán, con cháu tụ họp ở nhà tộc trưởng để lễ Tổ Tiên và chúc tết ông bà, các bậc huynh trưởng. Theo quan niệm, cứ năm mới tới, mỗi người tăng lên một tuổị, bởi vậy ngày mồng Một Tết là ngày con cháu “chúc thọ” ông bà và các bậc cao niên (ngày xưa, các cụ thường không nhớ rõ ngày tháng sinh nên chỉ biết Tết đến là thêm 1 tuổi).

Lì xì

Lì xì ngày Tết (利是, phát âm theo người Quảng Đông: lishi): người lớn thường tặng trẻ em tiền bỏ trong một bao giấy đỏ, hay “hồng bao”, gọi là “lì xì” với những lời chúc mừng ăn no, chóng lớn. Theo cổ tích Trung Quốc thì trong “hồng bao” có 8 đồng tiền (là Bát Tiên hoá thân) được đặt dưới gối đứa trẻ để xua đuổi quỷ đến quấy nhiễu.
Tín ngưỡng Tết

Xin chữ đầu xuân

Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bầy mực tầu giấy đỏ
Bên phố đông người qua
(Vũ Đình Liên)

Đầu năm thường gắn với việc cầu xin những điềm lành, việc lành trong ao ước của con người qua những cuộc hành hương về nơi linh thiêng nhất. Xin chữ là một trong những hoạt động tâm linh ấy.
Việc mang ý nghĩa này có ở nhiều nơi trên khắp mọi miền đất nước. Từ Bắc chí Nam, từ xuôi lên ngược, chẳng phân biệt giàu nghèo, sang hèn… ta thường bắt gặp những gương mặt giống nhau ở sự thành tâm của người xin chữ trước người cho chữ. Ngày xưa là chữ Nho, ngày nay vẫn là chữ Nho, lại có thêm cả chữ Ta nữa.

Các thầy đồ Hán học và Quốc ngữ học tha hồ thả hồn theo nét bút mà tặng lại cho người xin cái tâm, cái tài của mình được gửi qua nét chữ và nội dung của chữ theo ước nguyện của người xin. Chưa có ai bán chữ, chỉ có người mua giấy để xin chữ. Người cho chữ vẫn có lộc nhưng tinh tế hơn. Việc tưởng như không bình thường nhưng lại thể hiện được nét thanh tao của công việc. Các thầy đồ không phải bận bịu và hệ lụy vào chuyện giá cả, tiền nong để đủ thanh thản và toàn tâm trong công việc cho chữ mang vẻ thánh thiện này.

Việc xin chữ đầu năm lâu nay đã có và ngày một thịnh hành, nó đang trở thành phong tục đẹp của người Việt Nam mỗi độ xuân về Tết đến. Tại Hà Nội, việc này diễn ra ở nhiều nơi: trong nhà riêng của một số thầy đồ có tiếng văn hay chữ tốt, trên đường phố nơi có khoảng hè rộng rãi và nhiều người qua lại. Chỗ có vẻ ấn tượng nhất là trước sân Miếu Văn, khoảng hè phố đường Bà Triệu, đoạn giao cắt với đường Trần Hưng Đạo… Xin chữ là một nét đẹp văn hóa cần phát huy. .Chỉ một chữ treo trước mặt mà có ý nghĩa về đạo đức và đời sống đối với những con người cụ thể sẽ giá trị hơn nhiều những lời nói sáo rỗng.

LenDuong.VN

VÀI NÉT PHONG TỤC NGÀY TẾT


Xmas

Visuckhoe.blogspot Xin chân thành cảm tạ Tạp Chí Non Sông đã cho phép chúng tôi đăng lại bài này, để chúng ta hiểu rõ hơn về các phong tục của ngày Tết.
Đây là nguyên văn của bài "Vài Nét về Phong Tục Ngày Tết"
:

Trong làn nắng ửng khói mơ tan,
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng.
Sột soạt gió trêu tà áo biếc,
Trên giàn thiên lý--Bóng xuân sang.

Trích "Mùa Xuân Chín," thơ Hàn Mặc Tư

Ít nắng mới, ít gió mới. Thế là đủ để báo hiệu một mùa xuân mới. Nhưng dù mới thế nào đi nữa, mùa xuân chỉ nằm trong chu kỳ luẩn quẩn bốn mùa của Tạo Hóa. Cũng như thơ họ Hàn làm đã lâu mà đọc lại cứ tưởng như mới làm xong đêm qua. Cách đón nàng Xuân cũng xưa lắm, có lẽ bắt nguồn từ ngàn năm trước trong cơn mưa phùn lất phất ở miền Bắc Việt Nam. Khi ấy, người Việt bắt đầu gọi những ngày đầu xuân là "Tết" (đọc trại ra từ chữ "tiết," tức là "mùa," hay hiểu rộng ra là "mùa hội"). Nhưng dù xưa thế nào đi nữa, phong tục ngày Tết vẫn phản ảnh những tính cách đặc thù của nền văn hóa Việt qua nhiều thế hệ. Tết là dịp để người ta biểu tỏ tình thương nhân loại, xum họp gia đình, thăm viếng thân nhân, và thờ phượng tổ tiên. Tết cũng là dịp nghỉ ngơi, chơi đùa để chuẩn bị làm việc hăng say hơn trong năm mới. Ngày xuân trên xứ người, ta hãy cùng ôn lại một vài nét tổng quát về những tập tục ngày Tết.

I. Đón Tết với Gia Đình

Như lễ Tạ Ơn và lễ Giáng Sinh của Tây phương, Tết là lúc gia đình góp mặt đông đủ. Con cái, cháu chắt đi làm, đi học ở xa đều được nghỉ phép về thăm nhà khoảng 23 tháng Chạp âm lịch. Tuy vậy, gia đình Việt Nam trung bình dành ra nửa tháng Chạp để chuẩn bị đón Tết cho chu đáo. Có rất nhiều việc để làm: nào thăm mồ mả tổ tiên, nào mua hoa, pháo, nhang, đèn, nào sắm sửa quần áo mới, nào gói bánh chưng, bánh dầy, nào quét dọn nhà cửa. Đến đêm 30 tháng Chạp, mọi việc mua sắm phải hoàn tất, bàn thờ tổ tiên phải được sắp đặt tươm tất, các món ăn phải làm xong, pháo phải sẵn sàng.

1. Đi thăm mộ tổ tiên

Từ ngày 23 cho đến chiều 30 tháng Chạp, con cháu trong gia tộc tề tựu đông đủ và cùng đi thăm và quét dọn mồ mã tổ tiên. Mỗi gia đình đều đem theo hương đèn, hoa quả để cúng, mời vong linh tổ tiên về ăn Tết với con cháu. Khi chưa có nghĩa trang ở nông thôn Việt Nam, ít nhà có ruộng đất lớn để làm mộ phần tổ tiên, nên những điền chủ có nhiều ruộng đất trong làng cho mượn đất chôn nhờ. Vì thế, cuối năm, mỗi gia đình đi thăm mộ đều mang theo quà Tết để biếu điền chủ đã cho mình mượn đất hay người coi sóc nghĩa trang (nếu mộ phần đặt trong nghĩa trang).

2. Đưa Táo quân về trời

Sự tích Táo quân (gồm ba vị thần coi quản bếp núc, nhà cửa của mỗi gia đình) đại khái như sau: Ngày xưa, có hai vợ chồng nghèo nhưng ăn ở với nhau rất đằm thắm. Nhưng làm hoài mà vẫn chỉ đủ ăn, anh chồng quyết định đi xa một chuyến thử thời vận, mong làm giàu để chị vợ đỡ lam lũ. Không may, anh ra đi được ba năm vẫn chưa quay lại. Chị vợ chờ mãi, chắc là anh đã chết nên tái giá với một anh nhà giàu. Dù vậy, lòng chị vẫn vương vấn tình cảm cũ. Mọât hôm, gần ngày Tết (có lẽ nhằm ngày 23 tháng Chạp?), gia đình làm cỗ cúng tổ tiên rất lớn nên có mấy người đến ăn xin trước cửa. Khi chị vợ đưa thức ăn cho họ, chị bất chợt nhận ra một trong những người ăn xin là anh chồng cũ của chị. Anh chồng sau thấy vậy, vội cho là vợ mình không chung thủy, nên nặng lời với chị. Uất ức vì bị hiểu lầm, chị liền nhảy vào đống lửa đốt vàng mã cao ngun ngút ngoài sân, tự vẫn. Anh chồng cũ thương vợ, cũng nhảy theo vào đống lửa. Anh chồng mới ăn năn thì sự đã rồi, nên anh nhảy luôn vào đống lửa. Hồn ba người lên thượng giới chầu Ngọc Hoàng. Ngọc Hoàng cảm thương tình cảnh của ba người, bèn phái cả ba về hạ giới để coi sóc bếp lửa của mỗi gia đình và cuối năm về thượng giới tâu lại những chuyện tốt xấu xảy ra trong từng gia đình trong năm.

Trên đây chỉ là một trong những sự tích về Táo quân. Nói chung, câu chuyện được kể lại nhằm giải thích nguồn gốc tục đưa Táo quân về trời và răn dạy con người tự giữ gìn hạnh kiểm vì mọi việc làm của con người đều được trình báo với Ngọc Hoàng. Ngày 23 tháng Chạp, mỗi nhà đều làm cơm, cúng tiễn Táo quân về trời. Ngoài mâm cơm với các món ăn tươm tất (tùy gia đình giàu, nghèo), còn có mũ và áo mã (bằng giấy) để Táo quân mặc và một hoặc ba con cá chép thả trong chậu nước để Táo quân cưỡi về thiên đình.

3. Lễ rước vong linh ông ba

Chiều 30 tháng Chạp, các thức ăn và trái cây được xếp thành cỗ để dâng lên bàn thờ ông bà, tổ tiên. Đây là dịp cả gia đình quây quần trước vong linh cửu huyền thất tổ, ôn lại những sự việc đã xảy ra trong năm để rút tỉa kinh nghiệm cho năm mới. Gia trưởng (người đứng đầu gia tộc, thường là người cao tuổi nhất) trịnh trọng thắp nén hương dâng lên bàn thờ, cầu xin tổ tiên chứng giám và phù hộ cho gia tộc được nhiều phước lành trong năm mới. Theo sau gia trưởng, mọi người trong nhà đều nghiêm trang chắp tay cung thỉnh tổ tiên về ăn Tết với con cháu.

4. Đốt pháo

Đúng giao thừa (tức là thời điểm giao hòa giữa 12 giờ đêm 30 tháng Chạp của năm cũ với rạng sáng mùng Một của năm mới), nhà nhà nhất loạt châm ngòi đốt pháo. Pháo tiểu, pháo trung, pháo đại đồng thanh nổ đùng đùng, dòn dã, và mùi khói nồng khét của thuốc pháo quyện vào mùi nhang thoang thoảng trên bàn thờ thành một thứ mùi rất đặc biệt, rất Tết.

Ngày xưa, dưới thôn quê, người ta tin rằng tiếng pháo trừ khử được ma quỷ và mang lại hạnh phúc cho dân làng. Lâu rồi thành tục. Ngày nay, tuy chỉ còn một số người tin vào việc trừ khử tà ma kiểu này, nhà nào cũng đốt pháo từ đêm giao thừa sang sáng mùng Một, mùng Hai, mùng Ba để đón vong hồn tổ tiên về ăn Tết, đón khách tới chơi, và đón khí xuân vào nhà. Đôi khi, đến mùng Mười vẫn nghe tiếng pháo lách tách ở xóm trên xóm dưới. Tiếng nổ đì đùng, vui tai của pháo phản ảnh sự tưng bừng nhộn nhịp của ngày Tết, và người ta tin rằng màu hồng thắm của xác pháo tượng trưng cho những điều may mắn.

Tiếc thay, vài năm gần đây, chính quyền cộng sản Việt Nam đã ra lệnh cấm đốt pháo trong nước. Có lẽ những âm thanh râm ran, ấm áp của pháo chỉ còn văng vẳng tại các hội chợ xuân hải ngoại.

5. Xuất hành

Khi tiếng pháo đã ngớt đêm 30, mỗi gia đình thường cử một người xuất hành (tức là bước ra khỏi nhà) trong những giây phút mới mẻ ngày đầu năm. Xuất hành phải xem lịch (xin xem bài viết về Âm Lịch) để chọn hướng tốt, hạp với tuổi của mình (xin xem bài viết về Các Con Giáp), ngụ ý để mang đến điều may mắn mỗi khi bước chân ra khỏi nhà trong năm mới. Sau khi xuất hành xong, người ta có thể tự xông nhà.

6. Xông nhà (hay "xông đất")

Đầu năm, nhiều người Việt cho rằng người đầu tiên bước vào nhà mình sẽ đem đến vận hên, xui cho gia đình suốt cả năm. Vì thế, cứ mỗi đầu năm là chủ nhà nhờ người có vận may xông nhà dùm. Người may mắn là người làm ăn phát đạt trong năm, gia đình sung túc, hạnh phúc. Nếu không tìm ra người, đôi khi chủ nhà đi xông nhà cho chính họ. Khách đi xông nhà thường ăn mặc chỉnh tề, bước vào cửa chính gian nhà, rồi rảo một lượt quanh nhà, xuống tận bếp, cốt để mang vận may vào từng xó nhà.

7. Chúc thọ

Trong gia đình Việt Nam, người cao tuổi được kính trọng hơn hết vì có nhiều kinh nghiệm. Theo thiển ý người viết bài, sự kính trọng quý vị cao niên cho thấy một xã hội biết kiêng nể nguồn gốc và có tinh thần khiêm tốn, chịu khó học hỏi từ những người đi trước vì có ai từng trải bằng các vị ấy. Cho nên, sáng sớm mùng Một Tết là lúc con cháu trong gia tộc tỏ lòng hiếu thảo qua việc chúc tuổi ông bà, cha mẹ. Người Việt quan niệm rằng cứ mỗi độ xuân về là mọi người đều thêm một tuổi, bất kể sanh nhằm ngày nào trong năm.

8. Lì xì

Chữ "lì xì" được phiên âm từ tiếng Quảng Đông sang tiếng Việt, nguyên là chữ "lợi thị" (tiền bạc, lợi lộc) trong Hán tự. Để mừng tuổi các em, những người lớn trong gia đình, họ hàng, bạn bè của cha mẹ tặng các em những món tiền nho nhỏ (lì xì) và chúc các em chóng lớn, học hành đỗ đạt, v. v. Những món tiền này được cho vào phong bao màu đỏ trơn hoặc có hoa văn vàng. Cũng như màu hồng thắm, màu đỏ hoặc các màu có sắc đỏ được tin là tượng trưng cho sự may mắn. Thưở trước, sau khi nhận những lời chúc thọ, các vị cao niên trong gia đình lì xì tất cả con cháu bất kể tuổi tác với những món tiền nho nhỏ, vừa bạc lẻ vừa tiền chẵn, ngụ ý chúc con cháu làm ăn phát đạt, tiền bạc sinh sôi nảy nở trong năm mới.

9. Thăm viếng

Sau khi xông nhà xong, chủ nhà bắt đầu tiếp đón bạn bè, thân quyến đến thăm, và cũng đi thăm trả lễ. Thông thường, mùng Một được dành để chúc thọ các bậc trưởng thượng trong gia tộc, thăm hỏi họ hàng. Mùng Hai được dành để các trò đến viếng và tạ ơn thầy cô giáo đã tận tình dạy dỗ mình trong năm qua, nêu cao truyền thống "tôn sư trọng đạo" của học sinh Việt Nam. Mùng Ba là ngày thăm hỏi, vui chơi với bè bạn.

10. Kiêng cữ

Vì cho là các hành vi trong những ngày đầu năm có thể đem lại vận hên, xui trong năm, nên người Việt hết sức thận trọng với lời ăn tiếng nói và các hành động vào ba ngày đầu năm. Có một số việc nên tránh, chẳng hạn: quét rác, đặc biệt là xác pháo, ra khỏi nhà vì bị xem là quét tiền ra cửa; biếu tặng các vật "cấm" như thuốc men hay dao nhọn vì bị xem là mang dấu hiệu của bệnh hoạn và xung khắc; nói các lời nặng nề, thô tục; khóc lóc, than thở; đập vỡ chén dĩa hay gương soi vì bị xem là dấu hiệu của sự đổ vỡ trong gia đình; mặc quần áo trắng hay đen vì bị xem là màu tang tóc, v. v. Vài việc kiêng cữ nêu trên đã đơn giản hóa theo thời gian, nhưng phần lớn vẫn được người Việt tin tưởng đến ngày nay.

II. Đón Xuân Trong Làng

Khác với lễ Tạ Ơn và lễ Giáng Sinh của Tây Phương, Tết Việt Nam không đơn thuần là dịp để xum họp gia đình mà còn là dịp để sinh hoạt, thi đua, kết thân với mọi người ngoài xã hội. Xã hội Việt Nam từ thưở xưa đã lấy nghề nông làm gốc, và người dân tổ chức xã hội theo hệ thống làng xóm, sống trong quần thể để tiện đùm bọc cho nhau khi mưa khi nắng. Làng là đơn vị hành chính nhỏ nhất trong xã hội Việt Nam, kiến tạo bởi một khối dân cư ở nông thôn, và có đời sống riêng về nhiều mặt.

1. Dựng nêu

Nhờ những sinh hoạt chung thường ngày, người dân Việt càng gắn bó hơn khi hữu sự. Theo một tích xưa, làng xóm và chùa chiền Việt Nam hay bị quỷ quấy nhiễu, nên mọi người cầu khẩn Phật che chở. Phật liền hiện ra và bắt lũ quỷ. Chúng van lạy xin tha và hứa sẽ không quấy phá nữa. Phật tha cho bọn chúng và căn dặn chúng không nên bén mảng đến những vùng đất có dấu tích của Phật. Rồi Phật dạy người dựng cây nêu cột phướn và rắc vôi trắng xung quanh để đánh dấu phần đất quỷ phải tránh xa. Từ đó, cứ Tết đến là người ta dựng cây nêu ở các chùa, đình làng, và đôi khi ở trước cửa nhà nữa.

Cây nêu là một thân tre cao, trên đỉnh treo ngọn phướn (cờ) ngũ sắc tượng trưng cho năm hành (kim: trắng, mộc: đen, thủy: xanh, thổ: vàng, hỏa: đỏ). Xen kẽ giữa những dải lụa ngũ sắc là những chiếc khánh bằng nhiều chất liệu khác nhau (gỗ, kim loại, đất nung, sành) tượng trưng cho bát quái (trong Kinh Dịch). Khi gió thổi qua, những chiếc khánh chạm vào nhau leng keng, nghe vui tai. Nêu dựng ở nhà dân không có ngọn phướn.

Đến mùng Bảy Tết, người ta làm lễ cúng Trời Đất, gọi là lễ Khai Hạ, và hạ cây nêu xuống. Lễ này chính thức chấm dứt Tết. Mọi người trở về cuộc sống thường nhật.

2. Hái lộc đầu xuân

Song song với việc dựng cây nêu ngọn phướn trong sân đình, chùa, người Việt còn có tục "hái lộc đầu xuân," cũng được thực hiện trong sân chùa, đình. "Lộc" có hai nghĩa, một là "nhánh cây non" và hai là "bổng lộc, ơn huệ." Sau khi đi lễ đêm 30 tháng Chạp về, người ta (phần đông theo Phật giáo và Khổng giáo) hay ghé lại các cây cổ thụ nơi sân đình, chùa, để hái một nhánh cây non về treo trước nhà hoặc trưng lên bàn thờ. Có lẽ vì chữ "lộc" (chỉ "nhánh cây") trùng âm với "bổng lộc, phước lộc" nên người ta tin rằng đem được cành lộc về nhà thì tương tự như rước được phước báu vào gia đình.

3. Hội xuân

Ân huệ không nhất thiết phải là tiền bạc mà gồm cả sức khỏe và sự sảng khoái tâm hồn. Do đó, dân làng tổ chức rất nhiều hội hè và các cuộc thi đua vào mùa xuân để mọi người cùng vui chơi sau một năm làm lụng cực nhọc. Tùy theo địa thế và dân cư, mỗi làng có những cuộc thi khác nhau. Dưới đây là một số cuộc thi tiêu biểu trong mấy ngày xuân:

Thi hát quan họ

Quan họ là một thể loại dân ca Bắc bộ, xuất phát từ tỉnh Bắc Ninh. Tương truyền, thể loại này do hoạn quan Hiếu Trung Hầu đặt ra để mua vui lúc tuổi già với đám trai gái trong tổng Nội Duệ, sau lan ra các tỉnh lân cận. Qua những câu hát quan họ, hai bên trai gái khen ngợi nhau, tỏ tình, rồi hứa hẹn với nhau. Vì không có nhạc đệm, hai bên cùng trao đổi bằng giọng đôi để nâng đỡ cho nhau. Khi thi hát, mỗi bên trai, gái có chừng bốn người (gọi là "bọn") cùng luyện giọng chung với nhau. Trọng tài là người hát lão luyện, biết nhiều giọng (tức là cách diễn tả lời hát qua nhiều giai điệu và âm vực khác nhau). Các bọn được chấm theo tài đối ý và đối giọng. Câu hát của bọn này càng lắt léo và dài hơi thì bọn kia càng khó đối. Giải thưởng không nhiều nhưng là vinh dự lớn cho bọn hát.

Ngoài lối hát quan họ, người ta còn thi hát đố, hát ví, hát trống quân, v. v. Môn nào cũng được người xem hội say mê theo dõi vì tính cách phong phú trong ngôn từ và chất giọng.

Thi thả chim

Ngày xưa, bồ câu là giống chim đưa tin nhanh và chính xác nhất, nên người ta chọn loại chim này để huấn luyện đi thi trong những hội Tết. Khi nghe tiếng trống lệnh, đàn chim được thả ra từ lồng tre phải nhất loạt bay lên. Các giám khảo chấm giải bằng cách theo dõi bóng của từng đàn chim trong một thau nước lớn. Đàn chim nào bay cao nhất và gọn nhất sẽ được giải.

Thi kéo co

Để nêu cao tinh thần thượng võ của dân tộc Việt, hội xuân nào hầu như cũng có tục kéo co. Những người tham dự chia làm hai bên, cùng nắm hai đầu dây và ra hết sức để kéo cho được bên kia ngã về phía mình. Hai bên có khi toàn là đàn ông, con trai lực lưỡng, có khi bên nam bên nữ, thường là những trai gái chưa chồng chưa vợ.

Thi đánh vật

Đánh vật vừa được coi là một môn thể thao và một môn võ nghệ, được trưng dụng ngay cả trong ngày thường để luyện tập sức khỏe. Một người đô vật giỏi cần phải khỏe và nhanh nhẹn để thi thố những miếng vật với đối phương. Người thắng cuộc phải vật ngửa hoặc đội bổng được đối phương của mình. Đô vật khi dự thi để mình trần, đóng khố xanh, đỏ, trắng, hoặc nâu, nhưng tránh màu vàng vì là màu của nhà vua. Tương truyền, nữ tướng Lê Chân của Hai Bà Trưng là người khởi xướng những cuộc thi đánh vật để tuyển binh. Dân làng về sau cứ theo lệ mà mở hội thi đánh vật.

Thi chèo thuyền

Không chỉ giỏi về bộ binh, dân Việt giỏi cả nghề thủy chiến. Cũng dưới thời Hai Bà Trưng, nữ tướng Cao Nhự đã tổ chức đội binh hải quân đầu tiên của Việt Nam. Theo truyền thống đó, người ta tổ chức những cuộc đua thuyền vào mùa xuân dọc theo các con sông lớn. Người tham dự có thể thi theo đội hay cá nhân. Trên bờ, người xem khua chiêng đánh trống cho cuộc đua thêm phần hào hứng.

Các cuộc thi làm thức ăn

Tất nhiên, dinh dưỡng chiếm vai trò không nhỏ trong đời sống người Việt. Tết đến, gia đình sum họp là lúc thết tiệc ăn mừng và lúc các bà, các cô trổ tài bếp núc của mình. Có rất nhiều cuộc thi trong dịp này, như thi thổi cơm, thi đồ xôi, thi nấu cỗ, thi làm bánh, thi luộc gà, v. v. Các cuộc thi không những đòi hỏi các bà, các cô phải biết nêm nếm các món ăn mà còn phải lanh lẹ, khéo léo trình bày các thức ăn cho có mỹ thuật nữa.

III. Tiêu Khiển Ngày Xuân

Nếu người Việt dành mùng Một Tết cho gia đình, mùng Hai cho thầy cô, thì mùng Ba ắt là cho bè bạn. Rong chơi ngoài hội xuân chưa tròn ý nghĩa ngày Tết, người Việt dành thêm những giây phút thâm trầm hơn với bạn bè qua những thú tiêu khiển thanh tao có, bình dân có.

1. Khai bút đầu xuân

Đầu năm, người Việt kiêng cữ rất kỹ từng lời ăn tiếng nói. Các học giả còn cẩn trọng đến từng nét chữ, câu văn, nên các cụ mượn khói hương nghi ngút và xác pháo đỏ hồng của ngày đầu năm để làm lễ khai bút. Nhân thi hứng đó, các cụ làm thơ bằng chữ Hán hay chữ Nôm và viết lên giấy điều (là loại giấy màu đỏ). Các bài thơ thường mang nội dung tán dương thiên nhiên hay mang lời chúc lành cho năm mới.

Đối với học trò, tục khai bút đầu xuân tượng trưng cho lòng hiếu học của dân Việt. Học sinh Việt Nam cũng tin rằng khai bút đầu xuân đem văn hay chữ tốt đến với họ trong năm mới. Ngày nay, cổ tục này dần dần mai một đi vì ít người học chữ Hán. Tuy nhiên, năm nào tại Hội Xuân do Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam Miền Nam California tổ chức cũng có mục "khai bút đầu xuân" bằng cả hai ngôn ngữ Việt và Anh.

2. Câu đối

Câu đối thực ra gồm hai câu có số chữ bằng nhau và đối chọi nhau cả về lời lẫn ý. Khi Hán học còn thịnh hành ở Việt Nam, câu đối được cả giới trí thức lẫn giới bình dân ưa chuộng. Ngày Tết, người ta treo chúng lên hai bên nhà để khách đến thăm cùng thưởng lãm với chủ. Câu đối được viết lên hai dải giấy điều bằng mực Tầu nhũ kim (loại mực lấp lánh vàng hay bạc). Người viết câu đối thường là các ông thầy đồ già trong làng, vốn có chữ tốt văn hay lại thêm tài viết chữ đẹp. Nội dung câu đối Tết là những lời chúc lành đầu năm. Sau này, câu đối không còn thịnh hành hay mang giá trị văn học nghệ thuật nữa mà chỉ được xem như món hàng trang trí cho vui nhà trong những ngày xuân.

3. Tranh Tết

Để trang hoàng nhà cửa vào dịp Tết cho sinh động hơn, người Việt chọn mua vài bức tranh Đông Hồ treo trong nhà. Tranh Đông Hồ là đặc sản của làng Đông Hồ, một làng nhỏ miền Bắc nước Việt. Tranh được in từ những ấn bản gỗ lên giấy dó (loại giấy xốp, bền, và mịn, làm từ vỏ một thứ cây leo tên là "dó"). Mực in tranh được pha chế bằng toàn chất liệu thiên nhiên: màu đen từ tro của lá tre, màu trắng từ vỏ trứng, màu xanh từ lá chàm, màu đỏ từ quả mồng tơi, v. v. Tranh diễn tả lại những điển tích, truyện thần thoại, hoặc biến cố lịch sử một cách hóm hỉnh, thông thường qua việc nhân cách hóa các động vật. Bức "Gà Đàn," chẳng hạn, vẽ một bầy gà con, tượng trưng cho lời chúc "con cháu đầy đàn," hay bức "Đại Cát," vẽ một anh gà trống uy nghi, tượng trưng cho lời chúc "an khang" nhân ngày đầu năm. Tranh Tết, nhất là tranh Đông Hồ, làm tăng thêm sự thanh lịch của gian phòng khách và chắc cũng bộc lộ trình độ hiểu biết nghệ thuật của chủ nhà đôi chút.

4. Mai đào

Hoa là món trang trí không thể thiếu trong mỗi dịp lễ hội Việt Nam. Ở miền Bắc, hoa đào nở rộ mỗi dịp xuân về. Ở miền Nam, hoa mai cũng đua sắc. Vì thế, mai và đào là hai loại hoa đặc trưng cho ngày Tết.

Hoa mai trưng vào dịp Tết là giống mai vàng, trổ thành từng khóm nhỏ trên cành cây mong manh cạnh những lộc non mơn mởn. Hoa đào màu hồng, cũng trổ thành khóm, thuộc giống bích đào (chỉ có hoa, không đậu quả) mới quý. Nhiều gia đình tin rằng những cành mai, đào nở rộ tươi tốt vào sáng mùng Một Tết sẽ đem lại sự thịnh vượng cho cả năm.

5. Cờ tướng

Cờ tướng có lẽ là thú tiêu khiển vận dụng trí năng nhiều nhất. Tương tự như cờ quốc tế (hay cờ vua), bàn cờ tướng hình vuông với các quân cờ tròn, mỗi quân có luật lệ tiến thoái riêng. Số người chơi gồm hai người, ngồi đối diện nhau. Người thắng phải "chiếu bí" (bắt) quân "tướng" của đối phương. Trong lịch sử Việt Nam còn lưu lại một truyền thuyết về môn cờ tướng:

Vào thời vua Trần Dụ Tôn (1341-1360), nước Việt đang có nguy cơ bị Trung Hoa xâm lăng. Để thử tài vua Dụ Tôn, vua Trung Hoa sai sứ giả sang Việt Nam thách đấu cờ với nhà vua. Nhà vua rất lo ngại, sai tìm người tài giỏi để đấu cờ với sứ giả Trung Hoa. Một cao thủ cờ tướng là Vũ Huyền đến chầu, cam đoan sẽ thắng sứ giả với điều kiện là trận đấu phải bắt đầu vào giữa trưa và ông phải được đứng hầu cận vua trong lúc đánh cờ.

Trận đấu diễn ra ngoài trời nên kẻ đứng hầu phải cầm lọng che cho vua. Vũ Huyền cho đục một lỗ thủng trên lọng của nhà vua để ánh mặt trời chiếu qua. Vũ Huyền cứ thế hướng dẫn tia nắng chiếu lên bàn cờ để vua theo đó mà đi. Kết quả là vua Dụ Tôn toàn thắng. Vua Trung Hoa từ đó kiêng nể vua Dụ Tôn, cho là người tài, nên không quấy nhiễu nước Việt nữa.

Đến nay, cờ tướng vẫn là một trò đấu trí truyền thống của người Việt trong suốt cả năm. Ngoài việc đấu cờ trên bàn cờ, người ta còn chơi cờ người ở một số làng tại Việt Nam. Luật lệ cờ tướng được giữ nguyên, duy các con cờ là người thật mặc y phục có thêu chữ mang tên các quân cờ, trang bị thêm cờ xí và binh khí, xem rất oai phong. Hai đấu thủ ngồi trên bệ cao ra lệnh cho các quân cờ di chuyển theo ý trên sân đình hay ruộng (thay cho bàn cờ).

IV. Nhi Đồng Chơi Xuân

Các cụ cao niên, các bậc trung niên, các anh thanh niên, và các cô thiếu nữ đều có những trò chơi ngày xuân. Lẽ tất nhiên, các em nhi đồng cũng ríu rít vui đùa cùng chúng bạn, khoe nhau quần áo mới, phong bao lì xì, và dắt tay nhau tung tăng khắp làng khắp phố.

1. Múa lân

Hễ nơi nào có tiếng trống "tùng dinh cắc tùng dinh" là mọi người từ cụ già đến em bé còn ẵm ngửa đổ xô ra xem. Nhanh chân nhất là các em nhi đồng, lúc nào cũng đứng hàng đầu, sát bên người đánh trống. Đoàn múa lân rất nhộn nhịp và đủ màu sắc, trông thật vui mắt. Đi đầu là ông địa, đeo mặt nạ, bụng tròn, phe phẩy chiếc quạt. Theo sau là mấy con lân, mỗi con do hai người múa; một người cầm đầu lân, người kia đỡ chiếc đuôi vải sặc sỡ. Hai người phối hợp nhịp nhàng, đưa con lân đi những nét khỏe mạnh, hùng dũng theo điệu trống.

Lân, nói tắt của "kỳ lân," là một trong bốn con vật huyền thoại: Long (rồng, được xem là cao quý nhất trong các loài vật), Ly hay Lân (loại thú đầu sư tử, mình ngựa), Quy (rùa, loại bò sát, được xem là sống thọ nhất), và Phượng (loại chim tưởng tượng, được xem là chúa các loài chim). Lân tượng trưng cho sức khỏe vô địch.

2. Súc sắc súc se

Đây là một trò chơi hàng năm của những trẻ em con nhà nghèo ở nông thôn miền Bắc Việt Nam, tương tự như trò trick-or-treat trong lễ Haloween của Hoa Kỳ. Đêm 30 tháng Chạp, trước giao thừa, các em kéo nhau thành từng đoàn rảo quanh làng và đến những gia đình nhà giàu để xin tiền thay vì xin kẹo như lễ Haloween. Em đi đầu cầm một cái lon hoặc ống tre, vừa đi vừa gõ. Các em nối đuôi theo sau cùng hát bài đồng dao:

Nhà nào, nhà này,
Còn đèn, còn lửa,
Mở cửa cho anh em chúng tôi vào.
Bước lên giường cao,
Thấy đôi rồng ấp.
Bước xuống giường thấp,
Thấy đôi rồng chầu.
Bước ra đằng sau,
Thấy nhà ngói lợp.
Voi ông còn buộc,
Ngựa ông còn cầm.
Ông sống một trăm,
Thêm năm tuổi lẻ.
Vợ ông sinh đẻ
Những con tốt lành,
Những con như tranh,
Những con như rối.

Bài đồng dao có ý khen chủ nhà là người quý phái (ví như rồng nằm trên giường cao), lại có nhiều của cải (nhà ngói lợp, voi, ngựa). Sau có ý chúc chủ nhà sống thọ (đến một trăm lẻ năm tuổi), vợ sanh cho nhiều con xinh đẹp (như tranh vẽ) và bụ bẫm (như con rối) để nối dõi. Với những lời chúc tốt đẹp như thế, ông bà chủ giàu có nào mà lại hẹp lượng với các em bao giờ!

Đã hai mươi hai năm qua, cái bức họa nàng Xuân gợi tình, gợi cảm của Hàn Mặc Tử hẳn chưa nhạt trong tâm trí người Việt đón xuân trên khắp hoàn cầu. Tuy những lễ nghi, phong tục để đón rước nàng Xuân có phần đơn giản hơn, gia đình Việt Nam tại hải ngoại vẫn không quên "ăn Tết" và dạy dỗ con cháu về những phong tục cổ truyền. Những lời giáo huấn ấy chính là một mùa xuân vậy.

Ông Như -Ngọc

Tài Liệu Tham Khảo

  1. Mai Phương. "The Meaning of Tet." Non Sông. Jan/Feb 1996: 16-20.
  2. Phan Kế Bính. Việt Nam Phong Tục. Fort Smith, Arizona: NXB Sống Mới. 1983.
  3. Sweeny, Jim. "Tet Paintings." Destination: Vietnam. Jan/Feb 1996.
  4. Toan Ánh. Hội Hè Đình Đám, Quyển Hạ. 1974.
  5. "Những Phong Tục Tết." Non Sông. Jan/Feb 1997: 26-30.
  6. "The Customs of Tết." Non Sông. Jan/Feb 1997: 31-35.
Đồng thời, người viết bài xin chân thành cảm ơn sự đóng góp ý kiến của ông Nguyễn Văn Nghiêm và các anh chị trong ban biên tập tạp chí Non Sông.

Ngày Tết có những phong tục gì?

giaothua.bmp Dân tộc ta có nhiều ngày Tết. Tết là cách nói tắt hai chữ lễ tiết. Có Tiết Thương Nguyên, Trung Nguyên, Hạ Nguyên, Thanh Minh, Đoan Ngọ, TrungThu... Ngày tết nêu ở đây tức là nói tắt Lễ tiết Nguyên Đán (ngày đầu năm).

Ngày Tết, dân tộc ta có nhiều phong tục hay, đáng được gọi là thuần phong như khai bút, khai canh, hái lộc, chúc tết, du xuân, mừng thọ... Từ trẻ đến già ai ai cũng biết, không nhắc thì thanh thiếu niên cũng mua cho được cành hoa bánh pháo, nghèo cũng có chiếc bánh chưng, chai rượu. Vì vậy xin miễn liệt kê dài dòng, để trao đổi một vài phong tục đáng được duy trì phát triển.

Tống cựu nghênh tân

Cuối năm quét dọn sạch sẽ nhà cửa, sân ngõ, vứt bỏ những thứ rác rưởi, cùng làng xóm dọn dẹp nhà thờ, đình chùa, đường sá phong quang, tắm giặt, cắt tóc, may sắm quần áo mới, trang trí bàn thờ, lau chùi bàn ghế ấm chén và mọi thứ thức ăn vật dụng.

Nhiều gia đình nhắc nhở, dặn dò con cháu từ phút giao thừa trở đi không quấy khóc, không nghịch ngợm, cãi cọ nhau, không nói tục chửi bậy, không vứt rác viết vẽ bừa bãi. Cha mẹ, anh chị cũng không quở mắng, tra phạt con em, đối với ai cũng tay bắt mặt mừng, vui vẻ niềm nở dầu lạ dầu quen.

Đối với bà con xóm giềng dù trong năm cũ có điều gì không hay không phải, điều nặng tiếng nhẹ hay xích mích gì đều xúy xoá hết. Dầu có thực lòng hay không nhưng không để bụng, cũng không ai nói khích bác hoặc bóng gió, ác ý gì trong những ngày đầu năm. Dẫu mới gặp nhau ít phút trước, nhưng sau phút giao thừa coi như mới gặp, người ta chúc nhau những điều tốt lành.

Hái lộc, xông nhà, chúc tết, mừng tuổi

cayneu1.jpgAi cũng hy vọng một năm mới tài lộc dồi dào, làm ăn thịnh vượng, mạnh khỏe tiến bộ, thành đạt hơn năm cũ. Lộc tự nhiên đến, đi hai lộc (chỉ là một cành non ở đình chùa, ở chốn tôn nghiêm mang về nhà), tự mình xông nhà hoặc dặn trước người "Nhẹ vía" mà mình thích đến xông nhà. Bạn nào vinh dự được người khác mời đến xông thì nên chú ý, chớ có sai hẹn sẽ xúi quẩy cả năm đối với gia đình người ta và cả đối với bạn. ở thành thị thời trước, sáng mồng một, có một số người nghèo gánh một gánh nước đến các gia đình giầu có lân cận và chúc họ "Lộc phước dồi dào". Những người này được thưởng tiền rất hậu. Nhiều người không tin tục xông nhà nhưng cũng phải dè dặt, chưa dám đến nhà ai sớm, sợ trong năm mới gia đình người ta xảy ra chuyện gì không hay đổ tại mình "Nặng vía". Chính vì vậy, đáng lẽ sáng mồng một đông vui lại hoá ít khách, trừ những nhà đã tự xông nhà, vì tục xông nhà chỉ tính người đầu tiên đến nhà, từ người thứ hai trở đi không tính.

Sau giao thừa có tục mừng tuổi chúc Tết. Trước hết con cháu mừng tuổi ông bà, cha mẹ. Ông bà cha mẹ cùng chuẩn bị một ít tiền để mừng tuổi cho con cháu trong nhà và con cháu hàng xóm láng giềng, bạn bè thân thích. Lời chúc có ca có kệ hẳn hoi nhưng xem người ta thích nhất điều gì thì chúc điều đó, chúc sức khoẻ là phổ biến nhất. Chú ý tránh phạm tên huý gia tiên, tránh nhắc tới lỗi lầm sai phạm cũ, xưng hô hợp với lứa tuổi và quan hệ thân thuộc. Chúc Tết nhưng người trong năm cũ gặp rủi ro tai hoạ thì động viên nhau "Của đi thay người", "Tai qua nạn khỏi", nghĩa là ngay trong cái hoạ cũng tìm thấy cái phúc, hướng về sự tốt lành. Kể cả đối với người phạm tội vẫn với thái độ nhẹ nhàng, khoan dung. Nhưng, nhìn chung trong những ngày đầu năm, người ta kiêng không nói tới điều rủi ro hoặc xấu xa.

Quanh năm làm ăn vất vả, ít có điều kiện qua lại thăm hỏi nhau, nhân ngày Tết đến chúc mừng nhau, gắn bó tình cảm thật là đặm đà ý vị; hoặc điếu thuốc miếng trầu, hoặc chén trà ly rượu, chẳng tốn kém là bao. Hiềm một nỗi, nhiều người còn quá câu nệ, công thức ruờm rà, không chủ động được kế hoạch. Nhiều vùng nông thôn, hễ đến chúc Tết nhau nhất thiết phải nâng ly rượu, nếm vài món thức ăn gì đó chủ mời vui lòng, năm mới từ chối sợ bị giông cả năm.

Quà Tết, lễ Tết

Bình thường qua lại hỏi thăm nhau có khi cũng có quà, biểu lộ mối ân tình, nhưng phong tục ta đi lễ Tết vẫn có ý nghĩa hơn, nhất là đi trước Tết càng quý. Loại trừ động cơ hối lộ quan trên để cầu danh cầu lợi thì việc biếu quà Tết, tổ ân nghĩa tình cảm là điều đáng quý. Học trò tết thầy giáo, bệnh nhân tết thầy thuốc, con rể tết bố mẹ vợ... quà biếu, quà Tết đó không đánh giá theo giá thị trường. Nhưng cũng đừng nên gò bó, câu nệ sẽ hạn chế tình cảm: Không có quà, ngại không dám đến. Dân tộc ta tuy nghèo nhưng vẫn trọng nghĩa tình, "Lời chào cao hơn mâm cỗ".

Lễ mừng thọ

Ở các nước Tây Âu thường mừng thọ vào dịp kỷ niệm ngày sinh, ở ta ngày xưa ít ai nhớ chính xác ngày sinh tháng đẻ nên vào dịp đầu xuân thường tổ chức mừng thọ lục tuần, thấp tuần, cửu tuần... tính theo tuổi mụ. Ngày tết ngày Xuân cũng là dịp mọi người đang rảnh rỗi, con cháu tụ tập đông vui.

mauty.jpgCũng vào dịp đầu xuân, người có chức tước khai ẩn, học trò sĩ phu khai bút, nhà nông khai canh, thợ thủ công khai công, người buôn bán mở hàng lấy ngày: Sĩ, Nông, Công, thương "Tứ dân bách nghệ" của dân tộc ta vốn cần cù, ai cũng muốn năm mới vận hội hành thôn làm ăn suôn sẻ, đầu xuân chọn ngày tốt đẹp, bắt tay lao động sớm, tránh tình trạng cờ bạc, rượu chè, hội hè đình đám, vui chơi quá đà. Sau ngày mồng một, dù có mãi vui tết, hoặc còn kế hoạch du xuân, đón khách, cũng chọn ngày "Khai Nghề", "Làm lấy ngày". Nếu như mồng một là ngày tốt thì chiều mồng một đã bắt đầu. Riêng khai bút thì giao thừa xong, chọn giờ hoàng đạo bắt đầu không kể mồng một là ngày tốt hay xấu. Người thợ thủ công nếu chưa ai thuê mướn đầu năm thì cũng tự làm cho gia đình mình một sản phẩm, dụng vụ gì đó (nguyên vật liệu đã chuẩn bị sẵn). Người buôn bán, vì ai cũng chọn ngày tốt nên phiên chợ đầu xuân vẫn đông, mặc dầu người bán chỉ bán lấy lệ, người đi chợ phần lớn là đi chơi xuân.

Cờ bạc

Ngày xưa các gia đình có nề nếp quanh năm cấm đoán con cháu không được cờ bạc rượu chè nhưng trong dịp tết, nhất là tối 28, 29; gia đình quây quần bên nồi bánh chưng thì ông bố cho phép vui chơi, có cả trẻ con người lớn những nhà hàng xóm, những gia đình thân cận cùng vui. Tam cúc, cơ gánh, cờ nhảy, cờ tướng, kiệu, chắn, tổ tôm... ai thích trò nào chơi trò ấy. Đế lế khai hạ, tiễn đưa gia tiên, coi như hết Tết thì xé bộ tam cúc, thu bàn cờ tướng, cất bộ tổ tôm hoặc đốt luôn khi hoá vàng.

Tóm lại, ngày Tết là ngày tiêu biểu cho truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc. Giá như phát huy thuần phong mỹ tục đó, từ gia đình ra xã hội, ai ai cũng đối xử với nhau trên thuận dưới hoà, kính giá yêu trẻ... thì đất nước quê hương sẽ tươi đẹp, giàu mạnh, bộ máy pháp luật bớt đi bao nhiêu khó khăn.

Theo 100 điều nên biết về phong tục Việt Nam

www.SAGA.vn - leonidas

Chọn tuổi xông đất đầu xuân

Mỗi một tuổi ứng với một chất trong ngũ hành nên cũng có sinh khắc với tuổi khác. Nhân dịp xuân mới, mời các bạn thử tra cứu tuổi của mình để biết thêm một số thông tin thú vị và chọn người đến xông đất:

amlich1.jpg

1, Người tuổi Tý tính nết bộc trực nhưng lời nói, cử chỉ rất cẩn thận, chặt chẽ, sống rất tiết kiệm. Dễ bị kích động nhưng tính tự chủ khá cao, ngoại giao khéo, thích nơi náo nhiệt.Tuổi này xung khắc với tuổi Ngọ và hợp với tuổi Sửu (bạn có thể mời người tuổi này đến xôngnhà, tốt nhất là tuổi Tân hay Quý Sửu)

2, Người tuổi Sửu cần cù nhẫn nại, bảo thủ và quá thận trọng trong công việc. Bề ngoài họ mềm mỏng, chất phác và rất tôn trọng truyền thống, ưa kỷ luật, thẳng thắn, công minh, không thích dùng thủ đoạn và hay ghi chép sổ sách. Tuổi này xung với tuổi Mùi và hợp với tuổi Tý (bạn có thể mời người tuổi Bính Tý hoặc Mậu Tý đến xông nhà là tốt nhất)

3, Người tuổi Dần thích thể hiện năng lực, ưa phiêu lưu mạo hiểm, tính tập trung cao độ cho mục đích công việc nhưng cách sống lập dị và ưa hoạt động. Họ cũng là người có nhiều sáng kiến, ý diễn đạt sáng sủa, thích trang phục đẹp và cuộc đời gập ghềnh. Tuổi này xung với tuổi Thân và hợp với tuổi Hợi (bạn có thể mời người tuổi Quý Hợi hoặc ất Hợi đến xông nhà là tốt nhất)

4, Người tuổi Mão ôn hòa, mềm mỏng, cử chỉ thanh lịch, nhã nhặn và có khiếu về khoa học xã hội và chính trị nhưng lại không ưa đấu tranh trực diện, thích an nhàn mặc dù rất thông minh, trí tuệ. Họ không quan tâm nhiều đến cuộc sống gia đình và rất tự tin vào khả năng của mình. Tuổi này xung với tuổi Dậu và hợp với tuổi Tuất (bạn có thể mời người tuổi Nhâm Tuất hoặc Giáp Tuất đến xông nhà là tốt nhất)

5, Người tuổi Thìn nóng nảy vội vã, nhiệt tình và ôm nhiều khát vọng quá cao. Họ thường coi mình là trung tâm vũ trụ nên hay tự cao, tự đại. Tuy nóng nảy, cứng rắn đôi khi võ đoán nhưng họ lại thẳng tính, không hay để bụng và không ưa sự ràng buộc.Tuổi này xung với tuổi Tuất và hợp với tuổi Dậu (bạn có thể mời người tuổi Đinh Dậu hoặc Kỷ Dậu đến xông đất đầu năm là tốt nhất)

6, Người tuổi Tỵ thường có thiên hướng về triết học hoặc tâm lý học. Họ không thích nghe ai khuyên bảo, luôn đa nghi và bất chấp mọi thủ đoạn để đạt mục đích. Họ rất thông minh nhạy bén và không chịu nhường ai vì những tham vọng riêng của mình. Tuổi này xung khắc với tuổi Hợi và hợp với tuổi Thân (bạn có thể nhờ những người tuổi Bính Thân hoặc Giáp Thân đến xông đất).

7, Người tuổi Ngọ phóng khoáng nhanh nhẹn và hay cả thèm chóng chán. Họ có tính độc lập cao, thích hoạt động thể chất, khá nóng nảy và cố chấp nhưng đôi khi tiền hậu bất nhất vì thiếu nhẫn nại. Tuổi này xung khắc với tuổi Tý và hợp với tuổi Mùi (bạn có thể nhờ người tuổi Đinh Mùi hoặc ất Mùi đến xông nhà)

8, Người tuổi Mùi chính trực hiền lành, dễ cảm thông với người khác, yêu nghệ thuật và dễ tha thứ, nhưng họ cũng yêu tự do cá nhân, đa sầu đa cảm, sợ trách nhiệm nên ít khi dám quyết đoán việc gì, hay để lỡ cơ hội tốt. Tuổi này xung khắc với tuổi Sửu và hợp với tuổi Ngọ (bạn có thể mời người tuổi Bính Ngọ hoặc Mậu Ngọ đến xông đất đầu năm)

9, Người tuổi Thân nhanh nhẹn, thông minh tháo vát. Họ ưa tranh đấu nhưng lại khéo che đậy kế hoạch của mình. Là những người đa tài, làm được nhiều ngành nghề nhưng luôn cảm thấy mình giỏi hơn người khác nên thường chủ quan thái quá dẫn đến thất bại. Tuổi này xung khắc với tuổi Dần và hợp với tuổi Tỵ (bạn có thể mời người tuổi Đinh Tỵ hoặc Tân Tỵ đến xông nhà đầu năm)

10, Người tuổi Dậu rất bảo thủ, câu nệ, cố chấp với bản chất kiêu ngạo. Tuy tài giỏi, có năng lực và tài tổ chức, lại quyết đoán ưa tranh luận nhưng cách nghĩ cứng nhắc, không linh hoạt để thích ứng được với hoàn cảnh.. Tuổi này xung khắc với tuổi Mão và hợp với tuổi Thìn (bạn có thể mời người tuổi Mậu Thìn hoặc Canh Thìn đến xông đất đầu năm)

11, Người tuổi Tuất.Tuổi này xung khắc với tuổi Thìn và hợp với tuổi Mão (bạn có thể mời người tuổi Đinh Mão hoặc Kỷ Mão đến xông đất đầu năm)

11, Người tuổi Hợi.Tuổi này xung khắc với tuổi Tỵ và hợp với tuổi Dần (bạn có thể mời người tuổi Canh Dần hoặc Nhâm Dần đến xông đất đầu năm)
Theo Hà Nội Mới

Theo Blogphongthuy

Kê giường theo phong thủy

Trong phòng ngủ, chiếc giường luôn là điểm trọng tâm, đặc biệt là phòng tân hôn của đôi vợ chồng trẻ thì việc đặt giường như thế nào cho hợp phong thủy là điều vô cùng quan trọng.

Đối với cặp vợ chồng mới cưới thì việc kê đặt chiếc giường mới là chuyện hệ trọng quyết định khởi đầu cuộc sống mới của họ có suôn sẻ hay không? Nếu giường tân hôn không được đặt ở vị trí phù hợp sẽ khiến khí trường cơ thể người và khí trường của cả ngôi nhà không cân đối hài hòa với nhau, sẽ ảnh hưởng tới tình cảm của chủ nhân, làm cho cuộc sống vợ chồng có những rạn nứt về tình cảm bởi sự thay đổi về tính tình.


Việc kê đặt gường mới nếu kết hợp tốt giữa tinh hoa đạo phong thủy học truyền thống và khoa học hiện đại thì cần phải chú ý về nhiều mặt. Dưới đây là hôm số điểm cơ bản mà các cặp vợ chồng mới cưới cần chú ý khi bố trí giường tân hôn cho mình:

1. Phòng tân hôn không khí cần thông thoáng, tránh gây ngột ngạt, tức thở bởi màu và mùi của các đồ gia dụng và gỗ, sơn của giường mới ảnh hưởng đến đại não. Vì vậy nên để một thời gian để giường hết mùi sơn mới.

2. Tránh sử dụng vecni mầu hồng, nếu không sẽ có tác hại làm suy nhược thần kinh não. Màu này dễ gây cảm giác hốt hoảng, bất an, dễ sinh cáu gắt dẫn đến vợ chồng bất hòa.

3. Giường tân hôn không được kê ở mé tây ngôi nhà, hoặc căn phòng.

4. Hai bên đầu giường không được đối diện với cửa gian phòng vệ sinh.

5. Mé tây phòng tân hôn không được thường xuyêt phát ra tiếng động (không được đặt ti vi, loa, đài…)

6. Đầu giường và hai bên thành giường tân hôn không được đối chiếu với gương lớn, đẻ tránh ảnh hưởng tới sinh hoạt vợ chồng.

7. Tủ, bàn đầu giường không được đặt radio, máy hát… tránh gây suy nhược thần kinh.

8. Phía trên đầu giường không được treo ảnh lớn tân hôn, nếu không sẽ cảm giác bị đè nén.

9. Đầu cuối giường không trực diện với cửa ra vào nêu skhông dễ gây tâm lý bất an, dễ gây đau đầu.

10. Giường tân hôn không kê dưới xà ngang, nhưng nếu đã làm trần giả che kín thì không sao.

11. Giường tân hôn không nên kê sát cửa sổ tầng lửng, bởi mặt trời nắng gắt chiều trực diện sẽ không tốt, bất an.

12. Nếu đặt đèn chiếu xạ gián đoạn, để có ánh sáng dịu, tăng không khí ấm cũng tao nhã.

13. Phía đầu giường nhất thiết phải “tựa vào núi” không được trống huếch, tốt nhất là áp vào tường, nếu không người nằm dễ sinh ải tưởng, thậm chí có khuynh hướng tâm thần phân liệt.

14. Hình dáng giường tốt nhất có gờ thành chung quanh, như vậy nằm thấy yên tâm thoải mái.

15. Dù thấp hay cao, giường phải có chân, không được sát xuống sàn nhà (nhất là tầng trệt), như vậy phía gầm giường mới không bị khí, ẩm ướt, tránh được chứng suy nhược chức năng tim mạch.

CÁCH KÊ GIƯỜNG NGỦ THEO PHONG THUỶ

PGs Mộc Thiên

Phòng ngủ và sự sắp xếp đồ đạc trong phòng ngủ hết sức quan trọng trong đời sống cá nhân của chủ nhà và giữ vai trò chủ yếu trong việc tái sản xuất sức lao động của người ta. Thày phong thuỷ lại cho rằng bố trí đồ đạc như giường bàn trong phòng ngủ còn ảnh hưởng đến sự thành công và sức khoẻ của người sống trong phòng.

Vị trí kê đồ đạc trong phòng ngủ phải đảm bảo cho tiện nghi sinh hoạt, vệ sinh về không khí, ánh sáng, yên tâm về an toàn cho sức khoẻ cũng như an ninh cuộc sống. Vị trí ngủ đủ kín đáo và an toàn, tạo ra tâm lý yên tâm khi ngủ.

Vị trí kê giường còn phải đảm bảo những yếu tố về vật lý và các yếu tố về phong thuỷ nữa.

Chúng ta đều biết, dòng từ của trái đất tại mặt vỏ sẽ chuyển từ Bắc cực xuống Nam cực. Dòng từ của con người đi từ đỉnh đầu toả ra chung quanh rồi chuyển tụ xuống phía chân. Cần bố trí chỗ ngủ sao cho dòng từ của trái đất không mâu thuẫn với dòng từ của con người. Như thế, để tạo vị trí nằm phù hợp có thể có các phương án là chân quay về phía Bắc, đầu nằm phía Nam. Cũng có thể nằm ngang dòng từ là đầu quay về hướng Đông, chân hướng Tây hay ngược lại, đầu theo hướng Tây, chân hướng Đông. Trái với các hướng đó gây ra mâu thuẫn giữa dòng từ của trái đất với dòng từ của con người. Ngoài ra, cơ thể con người cũng phân định âm dương. Lấy trục đối xứng của người từ đầu xuống chân theo hướng mặt chia người thành hai nửa thì nửa phải thuộc dương, nửa trái thuộc âm. Trước mặt thuộc dương, sau lưng thuộc âm.

Ta thấy giường nằm của người Trung Hoa cổ có ba mặt che kín mà chỉ có lối vào nằm là hở. Thường người nằm quay mặt hướng ra phía hở này. Nhiều nhà sinh lý học khuyên tư thế nằm nên hơi nghiêng mà tay phải phía dưới để trái tim ở trên cho tim không bị đè nặng khi ngủ.

Phong thuỷ cầu kỳ hơn nhiều. Phong thuỷ khuyên rằng , khi nằm, mặt nhìn về hướng tốt. Hướng tốt phải theo cách tính tuổi và mệnh của người chủ để chọn. Mệnh được phân bổ theo ngũ hành: kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ. Lấy chu kỳ là 60 năm mà phân chia thì cứ hai năm chung một mệnh, như vậy có 30 mệnh cả thảy. Như mệnh kimbạch lạp kim, sa trung kim, kim bạch kim, xoa xuyến kim, hải trung kim, kiếm phong kim. Cũng như vậy, có 6 dạng mệnh thuỷtuyền trung thuỷ, trường lưu thuỷ, thiên hà thuỷ, đại khê thuỷ, đại hải thuỷ, giáng hạ thuỷ. Có 6 dạng mệnh hoảtích lịch hoả, sơn hạ hoả, phúc đăng hoả, thiên thượng hoả, lư trung hoả, sơn đầu hoả. 6 dạng mệnh mộcdương liễu mộc, tòng bá mộc, bình địa mộc, tang đố mộc, thạch lựu mộc, đại lâm mộc. Có 6 dạng mệnh thổốc thượng thổ, bích thượng thổ, sa trung thổ, lộ bàng thổ, thành đầu thổ, đại trạch thổ. Khi biết mệnh của một người, tuỳ theo nam hay nữ mà biết cung của họ. Cung bao gồm trong 8 hướng phương vị : Bắc là Khảm, Đông Bắc là Cấn, Đông là Chấn, Đông Nam là Tốn, Nam là Ly, Tây Nam là Khôn, Tây là Đoài, Tây Bắc là Càn. Mỗi hướng ứng với một ngôi sao được phân chia tốt xấu như sau: Sinh khí thuộc sao Tham lang ( rất tốt), Ngũ quỷ thuộc sao Liêm trinh ( xấu ), Phúc đức thuộc sao Vũ khúc ( tốt), Lục sát thuộc sao Lộc tốn ( xấu), Hoạ hại thuộc sao Lộc tốn ( xấu), Thiên y thuộc sao Cự môn ( rất tốt), Tuyệt mạng thuộc sao Phá quân ( rất xấu), Phục vị thuộc sao Tả phù (tốt). Tám hướng này chia thành đông tứ trạch có khảm, chấn, tốn, ly và tây tứ trạch có càn, đoài, khôn, cấn.

Phối hợp mệnh cung với hướng nhà ( mệnh vào hướng ) như sau:

Đạt được sinh khí ( rất tốt ) với các tổ hợp càn với đoài, khảm với tốn, cấn với khôn chấn với ly. Nghĩa là những người có mệnh càn thì phương tạo ra sinh khí là đoài, mệnh khảm thì phương sinh khí là tốn , mệnh cấn có phương sinh khí là khôn và mệnh chấn có phương sinh khí là ly.

Bắc


Tây Bắc Khảm Đông Bắc

Tây Đông

Tây Nam Đông Nam

Nam

Bắc


Tây Bắc Khảm Đông Bắc

Tây Đông

Tây Nam Đông Nam

Nam

Phương vị để xét hướng Thí dụ phối hợp mệnh cung và hướng

Phạm vào Ngũ quỷ ( xấu ) là do tổ hợp mệnh cung với hướng: càn với chấn, khảm với cấn, ly với đoài, khôn với tốn.

Đạt được Phúc đức ( tốt) khi tổ hợp mệnh cung với hướng : càn với khôn, khảm với ly, cấn với đoài, chấn với tốn.

Phạm vào Lục sát ( xấu ) là do tổ hợp mệnh cung với hướng : càn với khảm, cấn với chấn, tốn với đoài, ly với khôn.

Phạm vào Hoạ hại ( xấu ) do tổ hợp mệnh cung với hướng: càn với tốn, khảm với đoài, cấn với ly, chấn với khôn.

Đạt được Thiên y ( rất tốt ) nếu tổ hợp mệnh cung với hướng: càn với cấn, khảm với chấn, tốn với ly, khôn với đoài.

Phạm vào Tuyệt mạng ( rất xấu ) khi tổ hợp mệnh cung với hướng: càn với ly, khảm với khôn, cấn với tốn, chấn với đoài.

Đạt được Phục vị ( tốt ) khi tổ hợp mệnh cung với các trùng hướng: càn với càn, khảm với khảm, cấn với cấn, chấn với chấn, tốn với tốn, ly với ly, không với khôn, đoài với đoài.

Mệnh cung có thể tra trong bảng sau:

Năm sinh

Mệnh cung

Mệnh niên

Dương

Âm

Nam

Nữ

1924

Giáp tý

Tốn

Khôn

Hải trung kim

1925

Ât sửu

Chấn

Chấn

Hải trung kim

1926

Bính dần

Khôn

Tốn

Lư trung hoả

1927

Đinh mão

Khảm

Cấn

Lư trung hoả

1928

Mậu thìn

Ly

Càn

Đại lâm mộc

1929

Kỷ tỵ

Cấn

Đoài

Đại lâm mộc

1930

Canh ngọ

Đoài

Cấn

Lộ bàng thổ

1931

Tân mùi

Càn

Ly

Lộ bàng thổ

1932

Nhâm thân

Khôn

Khảm

Kiếm phong kim

1933

Quí dậu

Tốn

Khôn

Kiếm phong kim

1934

Giáp tuất

Chấn

Chấn

Sơn đầu hoả

1935

Ât hợi

Khôn

Tốn

Sơn đầu hoả

1936

Bính tý

Khảm

Cấn

Giáng hạ thuỷ

1937

Định sửu

Ly

Càn

Giáng hạ thuỷ

1938

Mậu dần

Cấn

Đoài

Thành đầu thổ

1939

Kỷ mão

Đoài

Cấn

Thành đầu thổ

1940

Canh thìn

Càn

Ly

Bạch lạp kim

1041

Tân tỵ

Khôn

Khảm

Bạch lạp kim

1942

Nhâm ngọ

Tốn

Khôn

Dương liễu mộc

1943

Quí mùi

Chấn

Chấn

Dương liễu mộc

1944

Giáp thân

Khôn

Tốn

Tuyền trung thuỷ

1945

Ât dậu

Khảm

Cấn

Tuyền trung thuỷ

1946

Bính tuất

Ly

Càn

Ôc thượng thổ

1947

Đinh hợi

Cấn

Đoài

Ôc thượng thổ

1948

Mậu tý

Đoài

Cấn

Tích lịch hoả

1949

Kỷ sửu

Càn

Ly

Tích lịch hoả

1950

Canh dần

Khôn

Khảm

Tòng bá mộc

1951

Tân mão

Tốn

Khôn

Tòng bá mộc

1952

Nhâm thìn

Chấn

Chấn

Trường lưu thuỷ

1953

Quí tỵ

Khôn

Tốn

Trường lưu thuỷ

1954

Giáp ngọ

Khảm

Cấn

Sa trung kim

1955

Ât mùi

Ly

Càn

Sa trung kim

1956

Bính thân

Cấn

Đoài

Sơn hạ hoả

1957

Đinh dậu

Đoài

Cấn

Sơn hạ hoả

1958

Mậu tuất

Càn

Ly

Bình địa mộc

1959

Kỷ hợi

Khôn

Khảm

Bình địa mộc

1960

Canh tý

Tốn

Khôn

Bích thượng thổ

1961

Tân sửu

Chấn

Chấn

Bích thượng thổ

1962

Nhâm dần

Khôn

Tốn

Kim bạch kim

1963

Quí mão

Khảm ly

Cấn

Kim bạch kim

1964

Giáp thìn

Ly

Càn

Phúc đăng hoả

1965

Ât tỵ

Cấn

Đoài

Phúc đăng hoả

1966

Bính ngọ

Đoài

Cấn

Thiên hà thuỷ

1967

Đinh Mùi

Kiền

Ly

Thiên hà thuỷ

1968

Mậu Thân

Khôn

Khảm

Đại Trạch thổ

1969

Kỷ Dậu

Tốn

Khôn

Đại trạch thổ

1970

Canh Tuất

Chấn

Chấn

Xoa Xuyến Kim

1971

Tân Hợi

Khôn

Tốn

Xoa xuyến kim

1972

Nhâm tý

Khảm

Cấn

Tang đố mộc

1973

Quý sửu

Ly

Kiền

Tang đố mộc

1974

Giáp Dần

Cấn

Đoài

Đại khê thuỷ

1975

Ât Mão

Đoài

Cấn

Đại Khê thuỷ

1976

Bính Thìn

Sa trung Thổ

Kiền

Ly

1977

Đinh Tỵ

Sa trung Thổ

Khôn

Khảm

1978

Mậu Ngọ

Thiên Thượng Hoả

Tốn

Khôn

1979

Kỷ Mùi

như trên

Chấn

Chấn

1980

Canh Thân

Thạch lựu Mộc

Khôn

Tốn

1981

Tân Dậu

nt

Khảm

Cấn

Lấy một thí dụ cách kiểm tra hướng kê giường. Bạn 36 tuổi dương lịch, sinh năm 1964 tức năm Giáp thìn. Bạn là trai, cung mệnh sẽ là Ly, mệnh niên là Phúc đăng hoả. Cung Ly thuộc tây tứ trạch bao gồm càn, đoài, khôn, chấn. Nếu kê giường có hướng mắt nhìn về các cung sau đây thì tốt : khảm, chấn, tốn, ly, đoài . Kê giường nhìn về hướng cấn, khôn, càn thì xấu.

Người đẻ năm 1958 là năm Mậu tuất, mệnh càn. Càn thuộc tây tứ trạch nên hợp với càn , đoài, khôn, cấn . Mệnh càn này xung với các cung khảm, chấn, tốn, ly. Như vậy người chủ nhà này kê giường sao cho khi nằm , mặt quay về phía Tây Bắc là tốt nhất, còn có thể quay về các hướng Tây, Tây Nam và Đông Bắc. Kê giường để khi nằm nhìn theo hướng Bắc, Đông, Đông Nam và Nam bị hướng xấu.

Phong thuỷ rất kiêng kê đầu giường sát cửa sổ và ít khi kê chân giường sát của đi. Nên kê đầu giường sát tường để tạo sự tin cậy an toàn. Nhiều nhà thường kê một cạnh giường sát tường mà chỉ để một lối lên giường. Kê thế này, người nằm phía trong ra khỏi giường phải bước qua người nằm ngoài, không tiện dụng. Tốt nhất là có thể lên xuống giường theo cả hai cạnh. Kê như thế không còn khái niệm người nằm trong, người nằm ngoài nữa.

Sau đây là thí dụ của ba cách kê giường tốt theo quan điểm phong thuỷ.

Bốn hình sau đây minh hoạ cách kê giường không theo phong thuỷ và chịu nhiều ảnh hưởng không tốt cho sự ngủ trong phòng.

Thực ra sự bố trí giường ngủ còn phụ thuộc tổng diện tích sử dụng đang có. Nhà quá chật chội thì làm sao nhét đủ số chỗ nằm, còn tốt xấu theo phong thuỷ là điều bàn sau./.