Thứ Sáu, 18 tháng 12, 2009

Trẻ nữ dậy thì sớm do đâu?

Ở châu Âu và Mỹ, người ta nhận thấy trong vòng 180 năm qua, tuổi dậy thì đang giảm đi với tốc độ 1-3 tháng trong mỗi 10 năm. Những năm gần đây, Tại Mỹ tuổi dậy thì của phái nữ là 8-13 tuổi còn phái nam là 9-14 tuổi. Ở nước ta chưa có thống kê về tuổi dậy thì và nhiều người thường căn cứ vào câu nói của ông bà xưa để lại: "nữ thập tam, nam thập lục" và cho rằng tuổi dậy thì của bé gái là 13 còn của bé trai là 16.

Nếu cho rằng ông bà ta ngày xưa ghi nhận tuổi dậy thì hơi trễ do quan sát những biểu hiện đã thật rõ nét của lứa tuổi này, cộng với tuổi dậy thì trải qua thời gian dài đã có giảm, tuổi dậy thì của bé gái ở nước ta phải từ 8 tuổi trở lên. Như vậy, dậy thì được cho là sớm khi bé gái “trổ mã” ở tuổi là 8 hoặc nhỏ hơn 8. Hiện nay ở nước ta, giống như nhiều nước trên thế giới, có hiện tượng bé gái dậy thì sớm đã xảy ra. Nhiều phụ huynh đã lo lắng viết thư đến các báo hỏi, cho biết có những bé gái khoảng 8 tuổi hoặc bé hơn đã dậy thì với các dấu hiệu phát dục như ngực nở to, có kinh nguyệt và thắc mắc nguyên nhân gây ra hiện tượng dậy thì sớm này.

Cho trẻ khám BS chuyên khoa nội tiết khi có biểu hiện dậy thì sớm.

Hiện tượng dậy thì sớm ở bé gái có thể do ba nguyên nhân.

Trước hết, do tự thân cơ thể bé gái có những rối loạn về mặt sinh dục đưa đến dậy thì sớm. Thí dụ như có bướu ở vùng dưới đồi hoặc ở tuyến tùng nằm ở não bộ, có thể gây tăng tiết estrogen sớm để làm dậy thì bé gái chưa đến tuổi 8. Nguyên nhân tự thân rối loạn có tính chất cá biệt và rất hiếm xảy ra. Chính 2 nguyên nhân còn lại là đáng quan tâm vì xuất phát từ môi trường và rối loạn có thể xảy ra cho một quần thể, gồm nhiều bé gái nữ do tiếp xúc với môi trường gây rối loạn.

Nguyên nhân thứ hai đã được ghi nhận là bé gái uống sữa bò, dùng các sản phẩm chế biến từ sữa bò, ăn thịt heo, gà bị nhiễm estrogen có thể đưa đến dậy thì sớm. Từ lâu và cho đến nay, trong chăn nuôi công nghiệp, người ta lạm dụng rất nhiều các chất gọi là “hormone tăng trưởng” nhằm để thúc các con vật nuôi phát triển. Trong các hormone tăng trưởng đó có estrogen hoặc các “tiền chất” có thể chuyển hóa thành estrogen. Những chất từ bên ngoài môi trường được đưa vào cơ thể con người hoạt động như estrogen được gọi là xenoestrogen. Bé gái chưa đến tuổi dậy thì nhưng lại tiếp xúc với xenoestrogen do tiêu thụ sản phẩm từ chăn nuôi công nghiệp sẽ có nguy cơ bị dậy thì sớm. Ta cần biết estrogen chính là một hormone sinh dục nữ (người nữ còn có hormone sinh dục thứ hai là progesteron). Cơ thể bé gái chưa dậy thì nhưng do tiếp xúc với xenoestrogen xem như có một lượng estrogen có trong cơ thể, estrogen này sẽ kích hoạt vùng dưới đồi và tuyến yên ở não tiết ra các hormone hướng dục (gonadotropins), đánh thức buồng trứng làm việc và làm xuất hiện sớm những hiện tượng đặc trưng của giới tính nữ. Đó là bé gái phát triển vú, sau đó mọc lông nách, lông trên xương mu và xuất hiện kinh nguyệt.

Nguyên nhân thứ ba cũng do từ môi trường. Cho đến nay đã có những chứng cứ xác đáng cho thấy bé gái dậy thì sớm do nhiễm các “dẫn chất phtalat”. Dẫn chất phtalat gồm nhiều chất hữu cơ như monobutyl phtalat (MBP), dibutyl phtalat (DBP), benzylbutyl phtalat (BZBP), diethylhexyl phtalat (DEHP), monomethyl phtalat (MMP)… Các dẫn chất phtalat thường được dùng làm chất hóa dẻo cho các bao bì nhựa như: chai, can, túi, bao, gói, đầu núm vú, bình sữa, trong đồ chơi trẻ em bằng chất dẻo, nhựa… Trong quá trình sử dụng các sản phẩm vừa kể, các dẫn chất phtalat bị trôi ra và theo đường tiêu hóa vào trong cơ thể con người. Trẻ em dùng bình sữa, bát nhựa, đồ chơi bằng nhựa có chứa hàm lượng cao các phtalat sẽ có nguy cơ bị nhiễm chất này. Tác hại của các dẫn chất phtalat là làm xáo trộn nội tiết và bé gái bị nhiễm phtalat sẽ dậy thì sớm trước tuổi. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này. Gần đây nhất là công trình nghiên cứu của Chou YY và cộng sự thực hiện tại Khoa Y, Đại học Quốc Gia Chen Kung Đài Loan vào năm 2009. Nghiên cứu trên 30 bé gái dậy thì sớm so với 33 bé gái bình thường cho thấy, trong nước tiểu bé gái dậy thì sớm chứa lượng monomethyl phtalat (MMP) cao hơn nhiều so với bé gái bình thường và kết luận MMP có thể là một nguyên nhân môi trường gây dậy thì sớm ở bé gái Đài Loan (Phtalat exposure in girls during early puberty, J Pediatr Endocrinol Metab. 2009; 22(1): 69-77).

Cũng vì tác hại của dẫn chất phtalat nên hiện nay, Nghị viện châu Âu không cho phép dùng DBP và DEHP có trong đồ chơi trẻ em và cả trong mỹ phẩm. Đối với chúng ta nên dùng cẩn thận các sản phẩm nhựa dẻo như PVC vì có thể chứa các dẫn chất phtalat. Không nên chế biến thức ăn quá nóng trong các tô chén, bao bì bằng nhựa mà nên thay bằng vật đựng bằng sứ (nhiệt độ quá nóng các phtalat dễ trôi ra). Dùng lá chuối hoặc giấy làm bao bì thay vì dùng bao bì bằng nhựa, plastic là tốt hơn xét về vấn đề bảo vệ môi trường. Các bậc phụ huynh lưu ý, nếu thấy các bé gái con em mình có biểu hiện dậy thì sớm nên đưa bé đến khám ở bác sĩ nội tiết để có hướng xử trí. Bởi vì dậy thì sớm với sự hiện diện estrogen có những tác dụng bất lợi, trong đó ức chế sự tăng trưởng sụn đầu xương ảnh hưởng đến chiều cao và đặc biệt, tâm lý bé có thể bị rối loạn ảnh hưởng đến tương lai của bé.

PGS.TS.DS. NGUYỄN HỮU ĐỨC-Suckhoedoisong

Trẻ sốt mức nào thì cần đi khám?

Với trẻ dưới 3 tháng tuổi, chỉ cần bị sốt quá 38 độ C là bạn đã nên đưa bé đến bác sĩ khám, sẽ tốt hơn là tự giảm sốt.

Với trẻ lớn hơn, ngưỡng thân nhiệt cần lưu ý có tăng hơn một chút: Trẻ 3 đến 6 tháng tuổi nếu sốt từ 38,5 độ C trở lên, bạn nên mang bé đến bác sĩ. Còn với trẻ 6 đến 12 tháng tuổi, thân nhiệt vượt quá 39,5 độ C cũng là lúc cha mẹ cần đưa đi khám.

sot.jpg

Nếu bé sốt dưới ngưỡng trên và vẫn ăn uống, sinh hoạt bình thường thì có nghĩa là bé không bị nguy hiểm, bạn không cần làm gì để giảm thân nhiệt, bởi vì một cơn sốt có thể sẽ giúp bé chống lại sự nhiễm trùng. Nếu bạn lo lắng, có thể hỏi ý kiến bác sĩ xem có thể dùng thuốc hạ sốt không.

Nếu thuốc hạ sốt không phải là sự lựa chọn của bạn vì bé không thích hợp với thuốc này, bạn có thể tắm cho con bằng nước ấm để giúp hạ sốt. Nhưng phải lưu ý là tắm trong nước ấm vừa, không quá lạnh vì nước lạnh sẽ làm trẻ run, làm tăng thêm thân nhiệt.

Lưu ý: Việc quấn tã chặt hay mặc quá nhiều quần áo cũng có thể làm cơ thể bé tăng nhiệt độ. Vì vậy nếu bạn muốn hạ sốt cho bé thì nên khắc phục điều này.

Theo Gia đình

Phòng chống bệnh tăng huyết áp - Giảm gánh nặng bệnh tật

1.1. Tình hình tăng huyết áp (THA) và quản lý huyết áp trên thế giới:

- THA là một bệnh mạn tính phổ biến nhất trên thế giới. THA không chỉ có ảnh hưởng lớn đến gánh nặng bệnh lý tim mạch mà cũng có ảnh hưởng nhiều đến gánh nặng bệnh tật toàn cầu. Theo tài liệu của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), HA là một trong sáu yếu tố nguy cơ chính ảnh hưởng tới phân bố gánh nặng bệnh tật toàn cầu.

- Tần suất THA trong cộng đồng ngày càng gia tăng và hiện tại đang ở mức rất cao, đặc biệt ở các nước phát triển. Tại các nước đang phát triển có hình thái bệnh tật chuyển đổi từ các bệnh nhiễm trùng là chủ yếu sang các bệnh không lây truyền là chính. Tần suất THA là 28,7% ở Hoa Kỳ (2000); 22% ở Canada (1992); 45,9% ở CuBa; 38,8% ở Anh (1998); 38,4% ở Thụy Điển (1999); 26,3% ở Ai Cập (1991); 15,4% ở Cameroon (1995); 27,2% ở Trung Quốc (2001); 20,5% ở Thái Lan (2001); 26,6% ở Singapore (1998)...

GS.TS. Nguyễn Lân Việt tại Hội nghị triển khai Dự án phòng chống bệnh tăng huyết áp.

- Năm 1991, Hoa Kỳ có khoảng trên 50 triệu người bị THA, chiếm tỷ lệ trên 30% trong số người lớn >18 tuổi. Chi phí trực tiếp hoặc gián tiếp cho điều trị, chăm sóc bệnh nhân THA hàng năm tới trên 259 tỷ đô la Mỹ. Từ những năm 70, Chính phủ Hoa Kỳ và các cơ quan chức năng đã sớm đề xuất và thực hiện các biện pháp can thiệp cho THA và kết quả là họ đã làm giảm đáng kể tỷ lệ mắc bệnh (morbidity) cũng như tỷ lệ tử vong (mortality) do các bệnh tim mạch có liên quan đến THA. Từ năm 1970 - 1994, nhờ các chương trình can thiệp và quản lý các yếu tố nguy cơ và THA nên tỷ lệ tử vong do tai biến mạch não đã giảm được 50 - 60% và tỷ lệ tử vong do các bệnh động mạch vành cũng giảm khoảng 40 - 50%.

- Tại Trung Quốc, từ năm 1991 - 2000, Bộ Y tế đã tiến hành chương trình quản lý đái tháo đường và THA tại cộng đồng của 3 thành phố lớn là Bắc Kinh, Thượng Hải và Quảng Châu. Kết quả của điều tra sức khỏe năm 2001 cho thấy tỷ lệ phát hiện sớm THA tăng từ 26,3% lên 44,7%; tỷ lệ người dân bị THA được điều trị tăng từ 12,1% lên 28,2% và tỷ lệ kiểm soát được huyết áp về bình thường tăng từ 2,8% lên 8,1%. Các biến chứng do THA gây ra cũng giảm đáng kể trong chương trình này: tỷ lệ mới mắc tai biến mạch máu não giảm được 52% ở nam giới và 53% ở nữ giới; tỷ lệ tử vong chung do đột quỵ cũng giảm được 54%. Năm 1995, Chính phủ Trung Quốc phối hợp với Tổ chức Y tế Thế giới và Ngân hàng Thế giới tiến hành chương trình Tuyên truyền giáo dục và dự phòng bệnh không lây nhiễm giai đoạn 1996 - 2002 tại 7 thành phố lớn nhất của Trung Quốc bao gồm khoảng 90 triệu dân. Kết quả cho thấy chương trình này đã giúp làm giảm tỷ lệ người lớn hút thuốc lá từ 29% xuống còn 13%; tăng tỷ lệ người dân có thói quen tập luyện thể dục thường xuyên từ 41% lên 84%; tăng tỷ lệ phát hiện sớm THA thêm 15%; giảm được 50% tỷ lệ bị các biến chứng về tim mạch và đột quỵ ở người dân có THA.

- Năm 1980, tỷ lệ THA của người dân lớn hơn hoặc bằng 20 tuổi ở Israel là khoảng 28,6%. Và từ những năm 80 này, Chính phủ Israel đã tiến hành các chương trình phát hiện sớm và kiểm soát THA trên phạm vi toàn quốc (AHDCP: Ashkelon Hypertension Detection and Control Program và The Israel Blood Pressure Control program (IBPCP). Đây là chương trình kết hợp giữa tuyên truyền, giáo dục cộng đồng nhằm nâng cao hiểu biết của người dân, thực hiện lối sống lành mạnh dự phòng THA và điều trị bằng các thuốc hạ huyết áp cho những người bị THA. Kết quả sau 20 năm cho thấy tỷ lệ kiểm soát được huyết áp về mức bình thường tăng từ 29% lên 46,7%; tỷ lệ nhồi máu cơ tim cấp và đau thắt ngực không ổn định do THA giảm được16%; tỷ lệ tai biến mạch máu não do THA giảm được 41,2%; tỷ lệ suy thận giai đoạn cuối do THA giảm 50%. Chương trình đã cứu sống được 2.242 người (trung bình 110 người/năm). Cũng qua các chương trình quản lý THA này, ngành y tế đã tiết kiệm được cho Chính phủ Israel 185 triệu USD, tức là khoảng 9,25 triệu USD/năm.

1.2. Tình hình THA và quản lý huyết áp tại Việt Nam:

- Tỷ lệ THA tại Việt Nam đang ngày càng gia tăng. Theo thống kê của GS. Đặng Văn Chung năm 1960, tần suất THA ở người lớn phía Bắc Việt Nam chỉ là 1% và hơn 30 năm sau (1992), theo điều tra trên toàn quốc của Trần Đỗ Trinh và cộng sự thì tỷ lệ này đã là 11,7%, tăng lên hơn 11 lần và mỗi năm tăng trung bình 0,33%. Và 10 năm sau (2002), theo điều tra dịch tễ học THA và các yếu tố nguy cơ tại 4 tỉnh phía Bắc Việt Nam ở người dân lớn hơn hoặc bằng 25 tuổi thì tần suất THA đã tăng đến 16,3%, trung bình mỗi năm tăng 0,46%. Như vậy, tốc độ gia tăng về tỷ lệ THA trong cộng đồng ngày càng tăng cao. Tỷ lệ THA ở vùng thành thị là 22,7%, cao hơn vùng nông thôn (12,3%). Với dân số hiện nay khoảng 84 triệu người (2007), Việt Nam ước tính có khoảng 6,85 triệu người bị THA, nếu không có các biện pháp dự phòng và quản lý hữu hiệu thì đến năm 2025 sẽ có khoảng 10 triệu người Việt Nam bị THA.

- Có nhiều yếu tố nguy cơ dẫn đến bệnh THA trong cộng đồng như: tuổi cao, hút thuốc lá, uống nhiều rượu/bia, khẩu phần ăn không hợp lý (ăn mặn, ăn nhiều chất béo), ít hoạt động thể lực, béo phì, căng thẳng trong cuộc sống, rối loạn lipid máu, tiểu đường, tiền sử gia đình có người bị THA... Phần lớn những yếu tố nguy cơ này có thể kiểm soát được khi người dân có hiểu biết đúng và biết được cách phòng tránh. Nhưng theo điều tra dịch tễ năm 2002 của Viện Tim mạch Việt Nam, 77% người dân hiểu sai về bệnh THA và các yếu tố nguy cơ của bệnh; hơn 70% các trường hợp không biết cách phát hiện sớm và dự phòng bệnh THA. Hiểu biết của người dân về bệnh THA ở nông thôn kém hơn hẳn ở thành thị.

- Các biến chứng của THA là rất nặng nề như tai biến mạch máu não, nhồi máu cơ tim, suy tim, suy thận, mù lòa... Những biến chứng này có ảnh hưởng lớn đến người bệnh, gây tàn phế và trở thành gánh nặng về tinh thần cũng như vật chất của gia đình bệnh nhân và xã hội.

Nguyễn Văn Đăng và cộng sự thuộc Bộ môn Thần kinh trường Đại học Y Hà Nội đã điều tra 1.707.609 người dân và cho thấy THA là nguyên nhân chính (chiếm 59,3% các nguyên nhân) gây ra tai biến mạch máu não (TBMMN). Theo niên giám thống kê của Bộ Y tế, tỷ lệ mắc TBMMN là 47,6/100.000 dân. Như vậy, hàng năm có khoảng 39.980 ca bị TBMMN và chi phí trực tiếp để điều trị bệnh này là 144 tỷ VND/năm trong đó hậu quả do THA gây ra là 85,4 tỷ VND. Có khoảng 15.990 người bị liệt, tàn phế, mất sức lao động do TBMMN/năm.

Theo điều tra dịch tễ học suy tim và một số nguyên nhân chính tại các tỉnh phía Bắc Việt Nam năm 2003 do Viện Tim mạch Việt Nam phối hợp với Tổ chức Y tế Thế giới thực hiện cho thấy nguyên nhân hàng đầu gây suy tim tại cộng đồng là do THA (chiếm 10,2%), sau đó là do bệnh van tim do thấp (0,8%).

Ở nước ta cho đến nay, chúng ta vẫn chưa có hệ thống quản lý và dự phòng đối với bệnh THA, các hoạt động y tế hiện mới chỉ tập trung cho công tác điều trị bệnh tại các bệnh viện. Chưa có mô hình dự phòng, ghi nhận và quản lý bệnh THA tại cộng đồng. Công tác tuyên truyền bệnh THA tại cộng đồng chưa sâu rộng, các hoạt động điều tra dịch tễ, đào tạo cán bộ cho công tác phòng chống THA tại cơ sở còn rất hạn chế. Ngân sách đầu tư cho công tác quản lý THA tại cộng đồng cũng còn khá khiêm tốn.

2. Mục tiêu dự án

2.1. Mục tiêu chung:

Nâng cao nhận thức đúng của nhân dân về bệnh THA và các yếu tố nguy cơ; Tăng cường năng lực của nhân viên y tế trong công tác dự phòng, phát hiện sớm và điều trị đúng bệnh THA theo phác đồ do Bộ Y tế quy định.

2.2. Mục tiêu cụ thể:

a. Nâng cao nhận thức của nhân dân về dự phòng và kiểm soát bệnh THA. Phấn đấu đạt chỉ tiêu 50% người dân hiểu đúng về bệnh THA và các biện pháp phòng, chống bệnh THA.

b. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực làm công tác dự phòng và quản lý bệnh THA tại tuyến cơ sở. Phấn đấu đạt chỉ tiêu 80% cán bộ y tế hoạt động trong phạm vi dự án được đào tạo về biện pháp dự phòng, phát hiện sớm, điều trị và quản lý bệnh THA.

c. Xây dựng, triển khai và duy trì bền vững mô hình quản lý bệnh THA tại tuyến cơ sở.

d. Phấn đấu đạt chỉ tiêu 50% số bệnh nhân THA được phát hiện sẽ được điều trị đúng theo phác đồ do Bộ Y tế quy định.

3. Giải pháp:

3.1. Giải pháp về chuyên môn, nghiệp vụ:

3.1.1. Chương trình tuyên truyền về bệnh THA cho cộng đồng:

Biên soạn các bản tin về bệnh THA và phát thanh hàng tháng trên loa phóng thanh: Bản tin được phát hàng tuần trong 1 tháng đầu tiên, sau đó được phát lại mỗi tháng một lần trong suốt thời gian thực hiện dự án. Mỗi lần phát thanh, thời gian là từ 5 - 10 phút. Nội dung của bản tin tập trung vào tuyên truyền, giáo dục thay đổi lối sống và thực hiện lối sống lành mạnh để dự phòng bệnh THA.

Biên soạn, in ấn các tờ rơi tuyên truyền về bệnh THA phát cho các hộ gia đình: Tờ rơi có 1 trang, dễ hiểu, có nội dung gồm THA là gì, những yếu tố nguy cơ của THA, cách phòng bệnh THA, những biến chứng của THA, các biện pháp theo dõi và quản lý THA.

Bảng tuyên truyền: Các bảng tuyên truyền về THA được đặt tại các vị trí công cộng như trạm y tế xã, ủy ban nhân dân xã, hội trường thôn/xóm, chợ, trường học... với nội dung bao gồm: Hãy điều trị THA; Hãy phòng bệnh THA, THA là kẻ giết người thầm lặng.

Tổ chức các buổi nói chuyện và tư vấn về THA tại các cơ quan và các tổ chức xã hội tại cộng đồng. Các buổi hội thảo, nói chuyện được tổ chức tại cộng đồng với sự hợp tác của các tổ chức xã hội như Hội người cao tuổi, Hội cựu chiến binh, Hội phụ nữ, Đoàn TNCS, Hội nông dân, trường học...

Phối hợp với Đài Truyền hình Việt Nam, kênh truyền hình O2 và Đài Tiếng nói Việt Nam xây dựng các chương trình tuyên truyền về bệnh THA, các biện pháp dự phòng và điều trị thông thường bệnh THA trên các chương trình của đài truyền hình và đài phát thanh trong phạm vi toàn quốc.

Phối hợp với Đài truyền hình địa phương và Đài phát thanh địa phương của 63 tỉnh/thành trong cả nước xây dựng các chương trình tuyên truyền về bệnh THA, các biện pháp dự phòng và điều trị thông thường bệnh THA và phát thanh tuyên truyền tại chính các địa phương.

3.1.2. Chương trình giáo dục, tập huấn về bệnh THA, cách dự phòng và quản lý bệnh cho nhân viên y tế từ trung ương đến địa phương:

Chương trình sẽ được tiến hành trên phạm vi cả nước cho nhân viên y tế ở 63 tỉnh/thành, 650 huyện và hơn 10.750 xã có tham gia vào dự án. Nội dung giáo dục, tập huấn gồm:

- Giáo dục cho các nhân viên y tế ở trung ương và địa phương những hiểu biết chính về bệnh THA và các hậu quả của bệnh.

- Hướng dẫn cách đo huyết áp đúng và các biện pháp phát hiện sớm và ghi nhận bệnh THA cho nhân viên y tế từ các tuyến trung ương đến tuyến cơ sở.

- Hướng dẫn về cách thay đổi lối sống và thực hiện lối sống lành mạnh trong dự phòng và điều trị bệnh THA.

- Tập huấn cho các cán bộ y tế chuyên trách của 63 tỉnh/thành và của hơn 650 huyện trên cả nước về mô hình dự phòng và quản lý bệnh THA tại cộng đồng.

- Phối hợp cùng cán bộ y tế chuyên trách của các tỉnh/thành và các huyện thực hiện tập huấn cho các nhân viên y tế tuyến xã (hơn 10.750 xã) về mô hình dự phòng và quản lý bệnh THA tại cộng đồng.

- Tổ chức các hội thảo quốc gia hoặc các khu vực Bắc, Trung, Nam về các biện pháp dự phòng, cách phát hiện sớm và điều trị đúng bệnh THA cho các nhân viên y tế cơ sở.

- Tập huấn về giám sát các hoạt động dự phòng và quản lý THA tại cộng đồng cho các cán bộ chuyên trách ở cả Trung ương và các địa phương.

- Kết hợp với các chuyên gia quốc tế về bệnh THA của các dự án khác như Dự án hợp tác với Tổ chức Y tế Thế giới, Dự án Phòng chống các bệnh không lây nhiễm (NCD) để tổ chức các lớp tập huấn nâng cao năng lực quản lý bệnh THA tại cộng đồng cho các cán bộ y tế của Trung ương và địa phương.

- Gửi các cán bộ phụ trách chuyên trách đi học tập kinh nghiệm và cập nhật các vấn đề liên quan đến dự phòng và quản lý bệnh THA tại cộng đồng ở các nước bạn trong khu vực Đông Nam Á và ở các nước tiên tiến.

3.1.3. Xây dựng và triển khai mô hình dự phòng và quản lý bệnh THA tại cộng đồng:

- Xây dựng mô hình dự phòng và quản lý bệnh THA tại cộng đồng.

+ Khảo sát tình hình bệnh THA (hiểu biết, yếu tố nguy cơ, tỷ lệ mắc bệnh... tại cộng đồng tham gia dự án).

+ Thực hiện theo dõi dọc theo thời gian, đo huyết áp định kỳ (1 lần/tháng), đánh giá các yếu tố nguy cơ của từng bệnh nhân, tư vấn về thực hiện lối sống lành mạnh để phòng và chống THA, phát thuốc điều trị THA định kỳ cho bệnh nhân cần điều trị thuốc.

+ Thành lập các câu lạc bộ THA: Các bệnh nhân THA được mời tham gia vào câu lạc bộ THA tại cộng đồng. Câu lạc bộ sẽ sinh hoạt một lần hàng tháng, nội dung thảo luận chủ yếu tập trung vào thay đổi lối sống trong điều trị THA. Tư vấn và trao đổi trực tiếp giữa bệnh nhân và các chuyên gia tim mạch về dự phòng và điều trị đúng bệnh THA.

- Tiến hành thực hiện thí điểm mô hình dự phòng và quản lý bệnh THA tại một số tỉnh ở các khu vực khác nhau (Bắc, Trung, Nam).

- Hội thảo đánh giá và rút kinh nghiệm việc thực hiện thí điểm mô hình dự phòng và quản lý bệnh THA tại cộng đồng.

- Hoàn thiện mô hình chuẩn về mô hình dự phòng và quản lý bệnh THA tại cộng đồng.

- Triển khai trên phạm vi toàn quốc mô hình dự phòng và quản lý bệnh THA tại cộng đồng.

GS.TS. Nguyễn Lân Việt đang hướng dẫn bác sĩ nội trú thăm khám bệnh nhân.

3.1.4. Xây dựng hệ thống giám sát các hoạt động dự phòng và quản lý bệnh THA tại các tuyến Trung ương, tỉnh, huyện và xã.

3.1.5. Xây dựng hệ thống sàng lọc, phát hiện sớm và ghi nhận về bệnh THA tại cộng đồng, chủ yếu là tại các tuyến xã (phường) sau đó gửi báo cáo lên tuyến huyện (quận), tỉnh (thành phố) và Trung ương.

3.1.6. Thực hiện lồng ghép các hoạt động dự phòng và quản lý THA tại cộng đồng với hoạt động của chương trình phòng chống các bệnh không lây nhiễm, chương trình phòng chống bệnh đái tháo đường, ung thư...

3.2. Giải pháp về cơ chế chính sách:

- Xây dựng các chính sách và cơ chế hoạt động trong lĩnh vực dự phòng và quản lý bệnh THA tại cộng đồng.

- Xây dựng chính sách cho người bệnh bị THA, như chế độ làm việc, nghỉ ngơi, đặc biệt là thuốc điều trị lâu dài cho bệnh nhân.

- Xây dựng cơ chế thực hiện các hoạt động của dự án trong đó có sự tham gia liên ngành, liên tỉnh, liên ủy ban... giúp cho việc điều phối và thực hiện dự án được thuận lợi.

- Xây dựng cơ chế hoạt động lồng ghép của các thành phần trong chương trình phòng chống các bệnh không lây nhiễm để tiết kiệm nguồn nhân lực, vật lực.

- Xây dựng cơ chế va chính sách xã hội hoá công tác phòng chống bệnh THA cho cả các đơn vị y tế bán công và tư nhân.

3.3. Giải pháp về tổ chức:

- Thành lập Ban chỉ đạo dự án có sự tham gia của Bộ Y tế, Viện Tim mạch Việt Nam, UBND và sở y tế các tỉnh, thành trong cả nước.

- Các hoạt động chuyên môn tim mạch trong dự án sẽ được sự tư vấn và giúp đỡ của Hội Tim mạch học Việt Nam, Viện Tim mạch Việt Nam.

- Dự án hoạt động có Ban Điều hành dự án, Thư ký dự án với đơn vị thực hiện ở tuyến Trung ương là Viện Tim mạch Việt Nam, các đơn vị thực hiện dự án ở địa phương là sở y tế, phòng y tế, bệnh viện đa khoa tỉnh, TTYT huyện (quận), phòng y tế huyện (quận), các trạm y tế xã (phường).

- Đơn vị trực tiếp thực hiện các hoạt động của dự án tại cộng đồng là các trạm y tế xã dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Điều hành dự án của các tỉnh, huyện với sự hướng dẫn chuyên môn của Ban điều hành dự án Trung ương.

3.4. Giải pháp về hợp tác quốc tế:

Tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế, mở rộng các hợp tác trao đổi về chuyên môn, kỹ thuật, cử cán bộ có đủ năng lực về chuyên môn và ngoại ngữ đi học tập kinh nghiệm và nâng cao năng lực chuyên môn về dự phòng và quản lý bệnh THA ở các nước trong khu vực Đông Nam Á và các nước tiến tiến trên thế giới.

Dự án quốc gia Phòng chống bệnh tăng huyết áp - Viện Tim mạch Việt Nam

GS.TS. Nguyễn Lân Việt-Suckhoedoisong

Tần số giao hợp

Nhiều người muốn có một trả lời chính thức đáng tin cậy được đúc kết từ các nghiên cứu khoa học hay từ các tài liệu trong cổ thư về tần số giao hợp. Những nghiên cứu y học hiện nay cho thấy hoạt động tình dục là nhu cầu cơ bản trong suốt đời người. Nó không những làm giảm đi những căng thẳng, thỏa mãn nhu cầu sinh lý của họ mà còn có tác dụng an ủi quan tâm lẫn nhau về mặt tinh thần giữa vợ chồng.

Trong tác phẩm Tố Nữ kinh, Hoàng Đế hỏi Tố Nữ rằng: “Nay ta muốn ngưng việc giao hợp một thời gian dài rồi trở lại có được không? Nguyên tắc tiết độ trong việc nam nữ giao hợp là gì?”.

Tố Nữ đáp: “Không nên, trời đất có hiện tượng đóng mở, khí âm, khí dương có hiện tượng thi hóa… Nếu ngưng giao hợp thì tinh khí không tuần hoàn, cái đạo âm dương bị cắt đứt… cái yếu tố căn bản của giao hợp là: an định cái háo hức, tâm trạng hứng thú, tinh thần sung mãn.

Ảnh minh họa.
Vì thế hoạt động tình dục điều độ, thích hợp sẽ mang lại niềm vui tinh thần, thỏa mãn về mặt tâm lý cho người lớn tuổi, có ý nghĩa rất tích cực trong cuộc sống của họ. Vậy không phải “vô dục tắc trường thọ” mà phải là “tình dục thích hợp sẽ trường thọ”.

Tần số giao hợp

Trong dân gian thường có câu ví von về đêm tân hôn: “đêm bảy ngày ba, vô ra không kể” để nói lên tần số này. Nhưng trong tác phẩm Tố Nữ kinh cho chuyện như sau:

Hoàng Đế hỏi: “Nguyên tắc giao hợp theo Tố Nữ là ái tinh, thương quý cái tinh khí của mình, mà tránh xuất tinh, vậy thời khi muốn có con thì phải làm như thế nào?”. Tố Nữ đáp: “Người ta thân thể cường nhược khác nhau, niên tuế cũng trẻ già khác nhau cho nên người ta phải tùy theo khí lực của mình mà giao hợp, không được cưỡng quyết, cưỡng quyết tất tổn hại đến thân.

Tốt nhất là:

- Ở vào tuổi 15 mà khí lực dồi dào mỗi ngày giao hợp và có thể xuất tinh 2 lần, ốm yếu thì mỗi ngày 1 lần thôi.

- Ở tuổi 20 cũng vậy, không nên nhiều hơn, nghĩa là mạnh mẽ thì 1 ngày 2 lần, trong mình không được khỏe thì mỗi ngày 1 lần.

- Ở tuổi 30 mà khỏe mỗi ngày 1 lần, người ốm yếu thì 2 ngày một lần.

- Ở tuổi 40 mà khỏe mạnh thì 3 ngày 1 lần, người ốm yếu thì 4 ngày 1 lần.

- Ở tuổi 50 thì 5 ngày 1 lần nếu khỏe mạnh, ốm yếu thì 10 ngày 1 lần.

- Ở tuổi 60 mà khỏe mạnh thì cỡ 10 ngày 1 lần, ốm yếu thì 20 ngày 1 lần.

- Ở tuổi 70 mà khỏe mạnh thì mỗi tháng 1 lần, ốm yếu thì nên kiêng cữ không nên xuất tinh.

Sách Ngọc phòng bí kiếp có ghi như sau: người ở tuổi 20 thường 2 ngày giao hợp 1 lần, người ở tuổi 30 thường 3 ngày giao hợp 1 lần, người ở tuổi 40 thường 4 ngày giao hợp 1 lần, người ở tuổi 50 thường 5 ngày giao hợp 1 lần, người ở tuổi 60 thì không nên xuất tinh.

Các sách về thuật phòng trung có: Ngọc phòng bí kiếp, Thiên kim phương, Ngự nữ chi pháp, Tố Nữ chi pháp, các con số nói trên đều tương tự như nhau. Sách Dưỡng danh huấn của ông Bố Nguyên Ích Hiên cho rằng: một đời người chỉ được phép giao hợp tối đa là 1.800 lần mà thôi...

Một công thức có tính cách tượng trưng :

Số tuổi tròn nhân cho 9 = XY.

Số tuổi tròn của 20 đến 29 là 2.

Số tuổi tròn của 30 đến 39 là 3.

Số tuổi tròn của 60 đến 69 là 6…

X: số tuần.

Y: số lần giao hợp.

Ví dụ:

- Một người ở tuổi 20 (số tròn là 2) 2 X 9 = XY (18) 18 : gồm có 1 (X) và 8 (Y) Như vậy một tuần giao hợp 8 lần.

- Một người ở tuổi 60 (số tròn là 6) 6 X 9 = XY (54)

18 : gồm có 5 (X) và 4 (Y)

Như vậy 5 tuần giao hợp 4 lần.

Theo nghiên cứu của chúng tôi thì khảo sát 50 người đàn ông ở tuổi 65 có một cuộc sống và sinh hoạt bình thường: họ có 6.000 lần thủ dâm ở tuổi từ 15-25 tuổi và 14.500 lần giao hợp. (6.000 lần cho 10 năm từ 25-35 tuổi, trung bình một ngày giao hợp 2 lần, 4.000 lần cho 10 năm từ 35-45 tuổi, trung bình một ngày rưỡi giao hợp 2 lần, 3.000 lần cho 10 năm từ 45-55 tuổi trung bình gần 1 ngày giao hợp gần 1 lần và 1.500 lần cho 10 năm từ 55-65 tuổi).

Và khi khảo sát với 40 phụ nữ thì tần số giao hợp thích hợp đối với họ chỉ vào khoảng 70% so với đàn ông.

Đặt biệt các bà sau khi hết kinh 4 năm hay sau 60 tuổi thì họ không còn hứng thú trong việc ân ái, vì thế tần số giao hợp chỉ còn 240 lần trong 10 năm cuối, chỉ tương đương 1/6 so với đàn ông cùng tuổi.

Tần số giao hợp mà chúng tôi đề cập chỉ có tính cách tham khảo, thực sự số lần giao hợp của một người có thể cao hoặc thấp hơn. Chúng ta nên theo lời khuyên của người xưa: “Người ta thể trạng mạnh yếu khác nhau, tuổi tác, già trẻ cũng khác nhau, nhu cầu tình dục cũng khác nhau cho nên phải tùy theo khí lực của mình mà giao hợp, không nên bắt ép thân thể mình làm quá sức chịu đựng của nó, bắt ép tất tổn hại đến sức khỏe”.

BS. HỒ ĐẮC DUY-Suckhoedoisong

Để đạt được cực khoái trong tình dục

Chuyện chăn gối vợ chồng, hay nói cách khác sinh hoạt tình dục là “món quà” đẹp nhất mà tạo hóa đã ban tặng cho con người, là một nhu cầu sinh lý tự nhiên và tất yếu của con người, nhằm duy trì giống nòi, chính nhu cầu tự nhiên này đã giúp con người tìm đến với nhau qua tình dục bằng tình cảm, đam mê và thích thú, trong đó ở nữ giới đại diện cho sự đam mê đó chính là cực khoái (CK). Vì vậy, để đạt được CK cho người bạn tình, nam giới cần có phải kiến thức nhất định về tình dục, để tạo nên một cuộc sống tình dục có trách nhiệm, lành mạnh và có chất lượng.

Thế nào là CK

CK là một cảm giác thích thú của thể xác, cao cấp nhất của loài người, bằng sự kích thích trực tiếp hoặc gián tiếp các vùng trọng yếu trong quá trình sinh hoạt tình dục. Có 2 loại CK, đó là CK nông và CK sâu. CK nông hay còn gọi là CK âm vật - cửa âm đạo, bằng sự kích thích âm vật trực tiếp và gián tiếp qua môi lớn - môi bé và các vùng lân cận, với cường độ thật nhẹ nhàng, liên tục và tăng dần, người nữ có cảm giác lâng lâng thích thú khó tả. Để đạt được CK này, người nữ phải tập trung cao độ, chú ý lên phần âm vật, nằm im, duỗi thẳng chân, chỉ cần một lơ đễnh là sẽ không thành công, sự kích thích lên âm vật nhẹ nhàng, liên tục, kéo dài sẽ kết thúc bằng sự co thắt ngoài ý muốn của nền âm đạo. Cơn CK này đã được 2 nhà nghiên cứu Masters–Johnson đánh giá cao và đưa ra định nghĩa, đó là: “Sự đột nhiên ý thức của miền khoái cảm tình dục, khu trú trong vùng âm vật nhưng lan tỏa lên phía trên, tới vùng xương chậu”, đó là bước thứ nhất; bước thứ hai được Masters-Johnson xác định: “ Một cảm giác nóng bừng lan tỏa đi từ khung chậu ra khắp người” và bước thứ ba: “Âm hộ và các bộ phận sinh dục trong khu vực rung lên nhè nhẹ. Đó là những co thắt bất giác và kèm theo những cảm giác tràn đầy hạnh phúc. Số rung động này từ 3 đến 12 đợt, tùy theo chất lượng và cường độ khoái cảm lúc đạt đỉnh điểm; nếu từ 2 đến 5 nghĩa là khoái cảm trung bình, nếu từ 6 đến 12 là khoái cảm cực độ, người phụ nữ hoàn toàn thỏa mãn”. Giai đoạn co thắt này mỗi cơn cách nhau khoảng 0,8 giây, lỗ cổ tử cung hé mở để tiếp nhận tinh trùng và trở lại bình thường sau 30 phút.

CK sâu, còn gọi là CK của điểm G, xuất hiện sau nhiều phút kích thích, để đạt được CK này thường được kích thích bằng dương vật hay bằng tay, tạo sức ép lên vùng Fascia de halban (tương đương điểm G). Điểm G được đặt theo tên của bác sĩ sản khoa người Đức tên là Grafenberg, người đã mô tả điểm này vào năm 1950, cho một vùng nhạy cảm còn gọi vùng Fascia de halban. Điểm G hay Grafenberg’s spot điểm này thật nhỏ kích thước bằng hạt đậu, khi được kích thích có thể dãn rộng bằng ngón tay (khoảng 2cm), nằm ngay mặt trước thành âm đạo, ở vào khoảng 3-5cm tính từ lối âm đạo vào.

Có hai tư thế để đạt được CK sâu:

- Người nữ nằm ngửa, đùi gập lại, cẳng chân giơ lên, người nam đưa dương vật vào ở tư thế quỳ.

- Người nữ nằm phía trên, hơi ngửa ra phía sau giữa hai đùi của chồng và chủ động tạo kích thích cho đến khi đạt CK.

CK sâu thường có cảm giác nhanh, gay gắt, ngay lập tức khi kích thích đúng lúc và có cảm giác như phóng một ít dịch, và cảm giác buồn tiểu sau CK, đặc biệt CK này nhanh chóng đáp ứng với những lần kích thích tiếp theo, còn CK âm vật sau đáp ứng người nữ có cảm giác mệt và phục hồi chậm hơn. Những tiêu chuẩn khách quan đạt được CK ở nữ: màu đỏ giới tính biểu lộ rõ ở mặt, ở lồng ngực, sau đó mờ dần. Toát nhẹ mồ hôi từ vai đến đùi, sự cương cứng núm vú, khi cương cứng núm vú và vòng thẩm màu bao quanh núm vú xẹp xuống báo hiệu CK đã hết; trong đó sự cương cứng núm vú là “nhân chứng” tốt để đánh giá mức độ đạt được CK.

Các bước để đạt được CK

Phương Tây có câu: “ Nhứt lưỡi, nhì râu, tam tay, tứ nó”, còn theo tác giả thì “Nhất lưỡi, nhì tay, tam qui, tứ củ”.

Tất cả đều theo nguyên tắc là “nhẹ nhàng, liên tục và tăng dần”, nếu trường hợp người nữ chưa tiết dịch đủ để tạo cảm giác, thì nam giới cần chủ động hỗ trợ thêm chất bôi trơn như KY, nhất là động tác tay - âm vật hay củ – âm vật…, vì âm vật ở trên cao dù có tiết dịch nhiều cũng không có độ trơn ở âm vật.

Tóm lại, tạo được CK ở nữ giới là một nhu cầu tất yếu trong đời sống sinh hoạt vợ chồng, là một hành vi văn hóa, một nghệ thuật say đắm lòng người, một khía cạnh của hạnh phúc, nam giới cần có trách nhiệm để tạo hương vị cho cuộc đời, là yếu tố để nam giới có đủ tự tin, thoát khỏi sự mặc cảm, tự ti thậm chí buồn chán và thất vọng.

BS. CKI Trần Quốc Long-Suckhoedoisong

Người tăng huyết áp có cần kiêng ăn trứng?

Rất nhiều người nghĩ rằng người bị tăng huyết áp thì cần kiêng ăn trứng, thực tế không phải như vậy. Những kết quả nghiên cứu của Hội Y khoa Mỹ đã cho thấy nếu người bình thường ăn 1-2 quả trứng mỗi ngày sẽ không nguy hại gì cho sức khỏe.

Theo Tiến sĩ Meis Stempfe thuộc Trường đại học Harvard của Mỹ đã kết luận rằng: "Trứng chính là một quà tặng của tự nhiên dành cho con người". Chúng ta hãy tìm hiểu về thành phần của trứng để yên tâm hơn khi sử dụng nó làm thực phẩm.

Trứng là loại thức ăn có giá trị dinh dưỡng đặc biệt cao. Trong trứng có đủ chất đạm, chất béo, vitamin, chất khoáng, các men và hormon. Tỷ lệ các chất dinh dưỡng trong trứng tương quan với nhau rất thích hợp, cân đối.

Chất đạm của trứng là nguồn rất tốt các axit amin cần thiết có nhiều vai trò quan trọng trong cơ thể, đặc biệt cần thiết cho sự phát triển cả về cân nặng và chiều cao của trẻ. Trứng có nguồn chất béo rất quý đó là lecithin. Lecithin thường có rất ít ở các thực phẩm khác, nó tham gia vào thành phần các tế bào và dịch thể của tổ chức đặc biệt là tổ chức não. Nhiều nghiên cứu cho thấy lecithin có tác dụng điều hòa lượng choletsterol, ngăn ngừa tích lũy cholesterol, thúc đẩy quá trình phân tách và bài xuất nó ra khỏi cơ thể. Trứng cũng chứa lượng cholesterol đáng kể (600mg cholesterol/100g trứng gà), nhưng trứng cũng có tương quan thuận lợi giữa lecithin và cholesterol do vậy lecithin sẽ phát huy vai trò điều hòa cholesterol ngăn ngừa quá trình xơ vữa động mạch và đào thải cholesterol ra khỏi cơ thể. Trứng cũng là nguồn cholin quý mà ít thực phẩm nào sánh bằng, chất cholin sẽ được gan chuyển thành axetylcholin là chất dẫn truyền thần kinh giúp làm tăng trí nhớ. Nếu ăn nhiều trứng sẽ làm tăng cholesterol máu nhưng mức tăng thực ra là rất nhỏ mà chính chất béo bão hòa được tìm thấy nhiều ở thịt, mỡ và phủ tạng động vật... mới làm cho cholesterol tăng lên nhiều. Trứng cũng là nguồn vitamin và chất khoáng rất tốt, các chất khoáng như sắt, kẽm, đồng, mangan, iốt... tập trung hầu hết trong lòng đỏ. Lòng đỏ có cả các vitamin tan trong nước (B1,B6) và vitamin tan trong dầu (vitamin A, D, K). Trong lòng trắng chỉ có 1 ít vitamin tan trong nước (B2,B6). Cả trong lòng đỏ và lòng trắng có chất biotin. Biotin là vitamin B8 - là vitamin tham gia vào chu trình sản xuất ra năng lượng để đáp ứng nhu cầu của cơ thể. Trong lòng trắng trứng tươi chất biotin kết hợp với 1 protein là avidin làm mất hoạt tính của biotin, tạo phức hợp biotin-avidin rất bền vững và không chịu tác dụng của men tiêu hóa. Khi nấu chín avidin sẽ được giải phóng khỏi phức hợp biotin-avidin. Khi ăn trứng sống có biểu hiện ngộ độc chính là tình trạng thiếu biotin với các dấu hiệu: chán ăn, nôn mửa, viêm lưỡi, viêm kết mạc, viêm móng và quanh móng...

Lòng đỏ và lòng trắng trứng có độ đồng hóa khác nhau. Lòng đỏ do độ nhũ tương và phân tán đều các thành phần dinh dưỡng nên ăn sống hoặc chín đều rất dễ đồng hóa, hấp thu. Các phương pháp nấu nướng thông thường (trừ quá kỹ) không làm giảm giá trị dinh dưỡng của nó.

Lòng trắng trứng khó tiêu và đồng hóa kém là do trong lòng trắng còn có men antitrypsin, ức chế các men tiêu hóa của tụy và ruột, khi đun nóng 80oC men này sẽ bị phá hủy. Do vậy cần nấu chín kỹ phần lòng trắng mới được ăn. Trứng là thức ăn quen thuộc và giàu dinh dưỡng, các chất dinh dưỡng lại ở tỷ lệ cân đối, do vậy trứng có thể sử dụng cho cả trẻ em và người lớn. Với trẻ nhỏ từ 5-6 tháng, 1 tuần chỉ nên ăn 3 lần, mỗi lần 1/2 lòng đỏ trứng gà dưới dạng nấu bột hay nấu cháo. Với trẻ trên 7 tháng mỗi ngày có thể ăn 1 quả trứng gà hoặc trứng vịt hoặc 4 quả trứng chim cút. Với người lớn 1 tuần có thể ăn 3-4 lần trứng. Với người bị tăng huyết áp hoặc cholesterol cao trong máu vẫn có thể ăn trứng vì qua những kết quả nghiên cứu của các chuyên gia dinh dưỡng Mỹ đã khẳng định, ăn trứng không làm tăng huyết áp và cholesterol máu mà trứng có chứa nhiều chất dinh dưỡng có lợi cho sức khỏe con người. Tuy nhiên với những người có huyết áp cao và mỡ cao trong máu chỉ nên ăn 2-3 lần trứng trong 1 tuần.

TS. Thanh Châu-Suckhoedoisong

Cách phòng ngừa bệnh cao huyết áp

BS. Quốc Bảo

Trong đời sống công nghiệp hiện nay, bệnh cao huyết áp (HA) ngày càng trở nên phổ biến. Các yếu tố liên quan đến việc gia tăng HA thường gắn liền vớI đời sống hiện đại như: thừa cân, hút thuốc lá, uống rượu nhiều, thừa lượng muối và lượng chất béo trong khẩu phần ăn… vì vậy, duy trì một lối sống lành mạnh là biện pháp hữu hiệu nhất để phòng chống căn bệnh này.

HA là gì?

HA là áp suất động mạch được tạo bởi sức đẩy của tim và sức ép của thành động mạch. HA thường được tượng trưng bằng hai chỉ số (thí dụ 120/80 đơn vị là mmHg), số trên (120) gọi là HA tâm thu, biểu hiện lực đẩy từ tim khi tim co bóp đẩy máu đi; số dưới (80) gọi là HA tâm trương, biểu hiện trương lực của thành mạch. Khi nào thì gọi là cao HA? Khi đo HA, muốn có một trị số tin cậy, người được đo phải nghỉ ngơi 10 – 15 phút trước khi đo và thường đo HA ở tay trái.

Trị số HA bình thường của mỗi người thay đổi tùy theo lứa tuổi

- HA tâm trương (số dưới) bình thường là từ 84-89; 90-104 là hơi cao và từ 105 trở lên là cao.

- HA tâm thu (số trên) bình thường là từ 120-139; 140-159 là hơi cao và 160 trở lên là cao.

- Dưới 40 tuổi, HA 145/80; dưới 50 tuổi, HA 150/80; dưới 60 tuổi HA 160/ 90 và trên 60 tuổi, HA 165/95 được coi là có khuynh hướng cao.

Những yếu tố ảnh hưởng đến trị số HA

Thỉnh thoảng, nếu thấy HA thay đổi và có khuynh hướng tăng thì khoan lo, vì có nhiều yếu tố trong cuộc sống ảnh hưởng đến trị số của HA như lo nghĩ, cảm xúc mạnh, bị stress, vận động nhiều, dùng nhiều chất kích thích… Ngoài ra, theo thời gian, người càng cao tuổi HA càng có khuynh hướng tăng lên do động mạch bị xơ vữa, kém đàn hồi.

Chế độ ăn uống cho người bị cao HA

Việc sử dụng thuốc trị cao HA phải do BS chỉ định nhưng một vấn đề khác cũng cần đặt ra, đó là làm giảm yếu tố nguy cơ cao HA do ăn uống. Vì thế, chế độ dinh dưỡng thích hợp là cần thiết.

- Thông thường nên ăn 3 bữa/ngày, không nên ăn vặt.

- Tránh thức ăn chiên xào, hạn chế mỡ, nhất là mỡ động vật. Tốt nhất là sử dụng thực phẩm hấp, luộc.

- Tránh các chất kích thích như trà, cà phê, thuốc lá…

- Nên ăn nhiều rau quả xanh để cung cấp chất xơ cho cơ thể, dùng dầu thực vật thay mỡ… và các sản phẩm từ ngũ cốc, trái cây, sản phẩm từ sữa…

- Trong các loại thịt thì ưu tiên cá, sau đó đến thịt gia cầm, cuối cùng mới đến thịt bò, heo, cừu.

- Hạn chế ăn muối, các nước chấm mặn, các thực phẩm giàu natri như: tôm khô, trứng vịt muối, chanh muối, thịt chà bông…

Bỏ thói quen xấu

- Ngưng hút thuốc: là biện pháp hữu hiệu nhất để phòng ngừa cả bệnh tim mạch lẫn không tim mạch ở người cao HA.

- Bớt uống rượu: có những bằng chứng cho thấy, có mối tương quan chặt chẽ giữa uống rượu, HA và tỷ lệ bệnh cao HA trong cộng đồng. Ngoài ra, rượu làm giảm tác dụng của thuốc hạ HA. Những người này cần lưu ý, nếu uống nhiều rượu sẽ gia tăng nguy cơ bị tai biến mạch máu não.

- Tăng hoạt động thể lực: giảm bớt béo phì, người sống tĩnh tại cần tập thể dục đếu đặn ở mức vừa phải như đi bộ nhanh hoặc bơi lội trong vòng 30 –45 phút, 3-4 lần/tuần. Các hoạt động thể dục này hiệu quả hơn chạy hoặc nhảy và có thể làm giảm HA tâm thu từ 4- 8mmHg. Các tập luyện nặng như cử tạ có tác dụng làm tăng HA, vì vậy nên tránh.

(Theo Suckhoedoisong)

Thứ Sáu, 13 tháng 11, 2009

Bị gout - Hãy uống nhiều nước

Theo các chuyên gia y tế, những bệnh nhân gout, ngoài việc duy trì chế độ ăn hợp lý, kiêng thực phẩm giàu purin... thì việc uống nhiều nước trong ngày sẽ tăng cường thải axit uric qua đường tiểu tiện.

Việc uống nhiều nước, nước khoáng, nước không có gas, giúp thải acid uric được tốt hơn cũng là một biện pháp phòng tránh cơn gout cấp và bệnh nhân gout cần tuân thủ điều trị để tránh suy thận, sỏi thận.

Chế độ ăn ảnh hưởng rất nhiều đến tình trạng bệnh gout vì vậy, người bị gout cần tuân thủ những nguyên tắc cơ bản dưới đây:

- Đảm bảo cung cấp năng lượng từ 30-35calo/kg cân nặng lý tưởng/ngày. Trong đó, lượng Protid: 0,8- 1g/kg cân nặng lý tưởng/ngày; Lipid: 20- 25% tổng số năng lượng. Axid béo chưa no 1 nối đôi chiếm 1/3, nhiều nối đôi chiếm 1/3 và axid béo no chiếm 1/3 trong tổng số lipid.

- Uống nhiều nước, tối thiểu là 1,5 lít /ngày. Không uống rượu, bia.

- Duy trì cân nặng lý tưởng. Với người béo cần có chế độ giảm calo.

- Loại bỏ thực phẩm giàu purin ra khỏi thực đơn hàng ngày như: các loại thịt thú rừng, phủ tạng, thịt lợn, thức ăn rán, cá trích, cá hộp...

- Hạn chế các thực phẩm như: Thịt, cá (100g/ngày), tôm, cua, ốc; Rau khô, trứng, sữa và sản phẩm sữa.

- Không nên ăn quá no trong một bữa mà chia nhỏ bữa ăn từ 3- 4 bữa/ngày.

- Không dùng các thực phẩm và đồ uống có khả năng gây đợt gút cấp như bia, nước có gas, cà phê, chè...

Nguồn: Hướng dẫn chế độ ăn bệnh viện - Bộ Y tế

Có thể làm giảm hàm lượng axit uric bằng rau quả ?

Hỏi: xin bac si cho chau biet co the dung che do an bang rau qua de dieu tri lam giam ham luong axit uric trong co the duoc ko, cach dung nhu the nao, bang nhung trai cay nao . Xin cam on bac si ?

Trả lời: Hiện chưa có tài liệu nào nói đến việc làm giảm acid uric máu bằng rau quả hoặc bằng các thuốc đông y nói chung. Chỉ có thể hạn chế các thức ăn có chứa nhiều purine để tránh làm tăng acid uric máu như đã nói ở trên.

Bác sĩ Nguyễn Thu Giang

Bệnh gút nên kiêng cữ những gì?

Hỏi : Em có người bạn bị bệnh Gút, bác sĩ có thể cho em biết triệu chứng của bệnh, các thức ăn phải kiêng cữ... Bệnh này có thể chữa khỏi được không? Người mắc bệnh này phải kiêng luôn việc quan hệ? lanlanphan@...Địa chỉ email này đang được bảo vệ khỏi chương trình thư rác, bạn cần bật Javascript để xem nó

Trả lời : Bệnh gút là một trong những bệnh thấp khớp gây đau đớn nhất, do ứ đọng những tinh thể uric acid nhọn như kim ở tổ chức liên kết, ở ổ khớp hay cả hai. Sự ứ đọng này dẫn tới viêm khớp với các triệu chứng sưng, nóng, đỏ, đau và cứng khớp.

Thuật ngữ viêm khớp bao gồm hơn 100 bệnh phong thấp ảnh hưởng đến khớp, cơ, xương cũng như các mô và các cấu trúc khác. Bệnh gút chỉ chiếm khoảng 5% trong số mọi trường hợp viêm khớp. Đôi khi bệnh gút “giả” cũng bị coi là bệnh gút vì có những triệu chứng tương tự như viêm, tuy nhiên, bệnh gút “giả” cũng còn có tên là bệnh ứ đọng phốt phát canxi ở sụn (chondrocalcinosis) chứ không ứ đọng uric acid như trong bệnh gút thật. Vì thế, điều trị bệnh gút “giả” có hơi khác.

Uric acid là sản phẩm thoái hóa của purine, chất này có trong các mô trong cơ thể và có ở nhiều loại thức ăn. Bình thường, uric acid hòa tan trong máu và đi qua thận để đào thải ra ngoài trong nước tiểu. Nếu cơ thể tăng sản sinh ra uric acid hay thận không đào thải được nhiều uric acid như cần thiết thì nồng độ uric acid tích tụ trong máu (gọi là tăng uric trong máu); hệ quả này cũng có thể xảy ra khi ăn quá nhiều thức ăn có hàm lượng cao purine như gan, đậu đỗ khô, cá trồng (thuộc họ cá trích), nước xốt.

Tăng uric acid trong máu không phải là một bệnh và bản thân nó không nguy hiểm. Tuy nhiên, nếu quá nhiều uric acid thì tất yếu sẽ hình thành các tinh thể và làm cho bệnh gút phát sinh. Quá nhiều tinh thể tích tụ ở khoang khớp sẽ gây viêm. Sự ứ động uric acid có thể ở dạng cục dưới da quanh khớp và cả ở vành tai. Ngoài ra, tinh thể uric acid còn có thể tích tụ ở thận và gây ra sỏi thận; bệnh gút tiên phát ở cả khớp ngón chân cái, khoảng 75% số bệnh nhân. Gút cũng có thể phát triển ở khớp bàn chân, cổ chân, gót chân, đầu gối, cổ tay, các ngón tay và khuỷu tay. Bệnh có thể diễn biến qua 4 giai đoạn:

Giai đoạn tăng acid uric trong máu, ngoài ra không có triệu chứng gì khác: ở giai đoạn này không cần điều trị.

Gút cấp tính hay viêm khớp do gút cấp: tăng uric acid đã tạo nên các tinh thể ở các khoang khớp, gây đau đột ngột và sưng khớp, có thể có cảm giác nóng và rất đau khi sờ mó. Cơn đau cấp thường xảy ra về ban đêm và đau do những sự cố gây stress, do rượu hay có bệnh nào đó. Đau thường giảm đi trong vòng 3-10 ngày, kể cả khi không điều trị và cơn đau tiếp theo có thể không xảy ra trong nhiều tháng hay nhiều năm. Tuy nhiên, theo thời gian, những cơn đau có thể kéo dài hơn và thường xuyên hơn.

Giữa các đợt đau khớp: có thể không có triệu chứng gì và chức năng khớp vẫn bình thường.

Bệnh gút mạn tính: giai đoạn khó chịu nhất của bệnh gút và thường kéo dài nhiều năm, có khi tới 10 năm. Thường xuyên đau ở khớp bị bệnh và đôi khi đau cả ở thận. Điều trị đúng thì phần lớn bệnh nhân không phát triển bệnh tới giai đoạn này.

Những nguyên nhân gây ra bệnh gút: một số yếu tố nguy cơ liên quan đến sự phát triển tăng uric acid trong máu:

Di truyền có thể có vai trò gây ra nguy cơ vì có tới 18% bệnh nhân gút có tiền sử gia đình có bệnh.

- Giới và tuổi tác có liên quan đến nguy cơ phát sinh bệnh, nam dễ bị bệnh hơn nữ và thường gặp ở người trưởng thành hơn là ở trẻ em.

- Người quá cân dễ bị tăng uric acid trong máu và dễ bị gút hơn vì các mô chuyển hóa và phân hủy nhiều hơn dẫn đến sự sản sinh quá nhiều uric acid.

- Uống quá nhiều rượu có thể gây tăng uric acid trong máu vì cản trở sự đào thải uric acid ra khỏi cơ thể.
- Ăn quá nhiều thực phẩm giàu purin có thể làm nặng thêm bệnh ở một số người.

- Thiếu hụt endim tham gia vào phân hủy purine gây ra bệnh gút ở một số ít người, nhiều người trong số này có tiền sử gia đình bị bệnh gút.

- Có người dùng một số thuốc hay có một số bệnh nào đó có nguy cơ bị tăng uric acid trong dịch cơ thể, ví dụ những loại thuốc sau đây có thể dẫn đến tăng uric acid trong máu vì giảm khả năng đào thải uric acid của cơ thể: thuốc lợi tiểu, salicylat hay các thuốc chống viêm tạo ra từ salicylate như aspirin, vitamin niacin còn gọi là nicotinic acid, thuốc ức chế hệ miễn dịch cyclosporine và kiểm soát sự đào thải mảnh ghép của cơ thể, thuốc levodopa hỗ trợ dẫn truyền thần kinh dùng cho bệnh Parkinson.

Điều trị: nếu điều trị đúng phương pháp, hầu hết bệnh nhân gút có thể kiểm soát được các triệu chứng và vẫn có thể làm việc. Có thể dùng liệu pháp duy nhất hay phối hợp. Mục đích của điều trị là giảm đau trong những đợt cấp để phòng ngừa các đợt sau và tránh sự tạo thành các tinh thể uric acid và sỏi thận.

Điều trị có hiệu quả thì có thể giảm được các triệu chứng và cả tổn thương lâu dài ở khớp bệnh, tức là giúp phòng ngừa sự tàn tật do gút gây ra. Dùng thuốc chống viêm không có nhân steroid (NSAID) hay colchicine uống liều nhỏ hàng ngày để phòng ngừa các cơn đau khớp sau này. Cũng có thể dùng allopurinol (zyloprim) hay probenecid (Benemid) để điều trị tăng uric acid trong máu và giảm tần suất các đợt đau đột ngột và sự tạo thành các tinh thể.

Không có tài liệu nào nói đến việc phải kiêng quan hệ tình dục nếu bị gút; tất nhiên nên tránh khi có đợt cấp tính và cần lựa chọn tư thế tình dục thích hợp khi bị đau khớp.

Bs Đào Xuân Dũng

Bữa ăn hàng ngày đối với bệnh nhân mắc bệnh gút

Gut là một bệnh khớp do rối loạn chuyển hóa nhân purin của tế bào, có thể nói nôm na là rối loạn chuyển hóa đạm, được đặc trưng bởi sự tăng cao quá mức axit uric trong máu và mô. Các tinh thể urat lắng đọng vào màng hoạt dịch của khớp gây nên viêm khớp vi tinh thể với những triệu chứng rất đặc trưng.

Bệnh thường xảy ra ở những người có địa vị cao trong xã hội hay người có kinh tế khá giả. Tuy nhiên, những năm gần đây, xã hội phát triển, đời sống dần được nâng cao, khoảng cách giữa thành thị và nông thôn cũng bị rút ngắn nên bệnh gut không phải chỉ là bệnh của nhà giàu mà đã trở thành một trong những bệnh của cuộc sống văn minh hiện đại. Bệnh chủ yếu gặp ở nam giới trưởng thành. Yếu tố gia đình thường hay gặp. Khoảng 10-30% bệnh nhân gut có người thân trong gia đình cũng mắc bệnh này. Bệnh gut đặc biệt hay gặp ở chủng tộc Polynesia, có thể là do thói quen sinh hoạt, chế độ ăn uống giống nhau trong gia đình.

Bệnh được biết đến từ thời Hypocrat nhưng đến thế kỷ XVII Sydenham mới mô tả đầy đủ các triệu chứng của bệnh. Một đặc trưng của bệnh gut là việc xuất hiện các cơn viêm khớp cấp tính do gut. Cơn xuất hiện tự phát hoặc sau một bữa ăn hoặc uống rượu quá mức. Nhiều bệnh nhân mô tả các đợt sưng đau khớp dữ dội đến mức không đi lại được sau những khi ăn nhiều hải sản, thịt thú rừng, thịt chó, hay đơn giản chỉ là ăn lòng lợn, tiết canh. Đặc biệt, uống nhiều rượu cũng góp phần gây tái phát bệnh.

Các tổn thương do gut gây ra

Khớp hay bị tổn thương là các khớp ở chi dưới như gối, cổ chân và đặc biệt là ở ngón chân cái. Cơn viêm khớp cấp tính thường khởi phát đột ngột và dữ dội vào nửa đêm. Khớp bị tổn thương đau ghê gớm, bỏng rát, đau làm mất ngủ, da trên vùng khớp hay cạnh khớp sưng nề, có màu hồng hoặc màu đỏ. Bệnh nhân đi lại rất khó khăn hay phải nằm bất động do đau. Viêm khớp cấp tính thường kèm theo cảm giác mệt mỏi, đôi khi sốt 38-38,5oC, có thể kèm rét run. Đợt viêm khớp cấp tính do gut kéo dài khoảng 1-2 tuần rồi khỏi, không để lại di chứng nhưng rất dễ tái phát với việc xuất hiện các đợt viêm khớp mới. Một đặc điểm nữa là khi uống thuốc colchicin thì bệnh nhân thấy giảm đau khớp nhanh trong vòng 48-72 giờ. Nhiều bệnh nhân chủ quan không điều trị đến nơi đến chốn, hay tự điều trị bằng các thuốc khớp, đặc biệt là dùng bừa bãi các thuốc prednisolon, dexamethason. Hậu quả là bị loét dạ dày, xuất huyết tiêu hóa, gãy xương, tăng huyết áp, đái tháo đường…

Cần có một chế độ ăn uống hợp lý

Khi có các đợt viêm khớp cấp tính, bệnh nhân nên uống nhiều nước (nước chè, nước hoa quả, sữa) và ăn cháo, súp, sữa, trứng. Một chế độ ăn hợp lý cần nhiều rau xanh và hoa quả, đặc biệt là rau actisô, xà lách, cà rốt, bắp cải, dưa chuột, dưa gang, khoai tây, cà chua. Có thể ăn trứng, sữa và các chế phẩm từ sữa, phomat trắng không lên men, cá nạc, ốc sò. Ngoài ra, bệnh nhân cần tích cực uống nhiều nước, đặc biệt là nước khoáng kiềm (sô đa, nước khoáng Lavie, Vĩnh Hảo…) để tăng cường thải tiết axit uric qua nước tiểu.

Để đề phòng đợt tái phát của bệnh, ngoài chế độ dùng thuốc hợp ly, bệnh nhân còn phải phải tuân thủ một số quy tắc ăn uống, sinh hoạt khoa học để đạt trọng lượng cơ thể ở mức sinh lý.

Cần nhận thức rằng ăn uống không hợp lý là một yếu tố thúc đẩy làm xuất hiện bệnh và làm tái phát bệnh, do vậy bệnh nhân cần tự nguyện áp dụng chế độ ăn kiêng, hạn chế bia rượu. Cụ thể lượng thịt ăn hàng ngày không nên quá 150g, đặc biệt cần tránh ăn phủ tạng động vật (lòng lợn, tiết canh, gan, thận, óc, dạ dày, lưỡi…), các loại thịt đỏ (thịt chó, dê, trâu, bê), các loại hải sản tôm, cua, cá béo), đậu hạt các loại, nấm khô, sôcôla. Bệnh nhân cần bỏ rượu, thậm chí cả rượu vang, rượu thuốc. Một số loại thức ăn cần hạn chế sôcôla, cacao, nấm, nhộng, rau giền… Cần tránh ăn những thức ăn chua như nem chua, dưa hành muối, canh chua, hoa quả chua… vì chính những chất chua làm cho axit uric tăng cường lắng đọng vào khớp cấp tính. Bệnh nhân mắc chứng béo phì cần áp dụng chế độ ăn giảm mỡ, giảm kalo.

Tóm lại, bệnh nhân bị gut cần phải cố gắng duy trì chế độ ăn uống khoa học hợp lý như chọn cho mình các thức ăn lành mạnh, bổ dưỡng, tránh các loại thức ăn chứa quá nhiều đạm cũng như tránh thức uống có chất kích thích như bia, rượu, cả nước chanh. Bệnh nhân gut cũng cần được sự hợp tác, thông cảm từ người thân, bè bạn trong những dịp liên hoan ăn uống. Khi đó, người bệnh sẽ có thể chủ động áp dụng chế độ ăn thích hợp với tình trạng bệnh của mình để có được cuộc sống vui vẻ và hạnh phúc.

TS. Nguyễn Ngọc Vĩnh

Sữa ít béo có thể ngừa bệnh gút

Từ thế kỷ 17, thịt đỏ, hải sản và các sản phẩm sữa đã bị kết tội là thủ phạm gây ra bệnh gút - căn bệnh của nhà giàu. Tuy nhiên, một nghiên cứu mới đây của Mỹ đã "giải oan" cho sữa, theo đó uống sữa ít béo mỗi ngày có thể giảm nguy cơ mắc bệnh.

Bệnh gút từ lâu được xem là "bệnh của vua và cũng là vua của các loại bệnh". Nó từng tấn công những nhân vật nổi tiếng như Benjamin Franklin, Charles Darwin, Leonardo da Vinci, và đang là nỗi ám ảnh cho hàng triệu người trên thế giới. Gút là một dạng viêm khớp đặc biệt, do sự kết tụ axit uric trong các ổ khớp ở mắt cá chân hoặc bàn chân gây nên. Bệnh có thể gây sưng tấy, cử động cứng nhắc và đau đớn khủng khiếp. Nếu không chữa trị kịp thời, gút có thể gây tổn thương khớp vĩnh viễn. Từ thế kỷ 17, nhà triết học lừng danh John Locke đã khuyến cáo nên tránh xa thịt và các sản phẩm sữa để phòng bệnh.

Để kiểm chứng lời khuyên của Locke, nhóm nghiên cứu, dẫn đầu là tiến sĩ Hyon Choi từ Bệnh viện Đa khoa Massachusetts, đã tiến hành điều tra thói quen ăn uống của hơn 47.000 đàn ông, bao gồm các bác sĩ nha khoa, nhãn khoa, chuyên gia nắn xương, dược sĩ và bác sĩ thú y.

Nhóm nhận thấy, nếu ăn quá nhiều thịt mỗi ngày, đặc biệt là thịt bò, lợn, cừu, thì nguy cơ phát triển bệnh gút sẽ tăng 21%. Nếu tiêu thụ nhiều hải sản mỗi tuần sẽ làm tăng 7% nguy cơ. Trong khi đó, nếu uống từ 1 tới 5 cốc sữa ít béo mỗi ngày thì nguy cơ mắc bệnh giảm tới 43%.

"Đó là bằng chứng đầu tiên cho thấy các sản phẩm sữa có khả năng ngăn ngừa bệnh gút hiệu quả", tiến sĩ Choi cho biết.

Nhóm của Choi cũng phát hiện ra một số loại rau mà người ta từng cho rằng có thể khiến bệnh gút thêm trầm trọng như các loại đậu hạt, đậu Hà Lan, nấm, rau bina, súp lơ... thực tế không những không nguy hiểm mà còn rất tốt cho người bệnh.

Theo Reuters

Chăm sóc bệnh nhân gút tại gia đình

Những người mắc bệnh gút nếu bị béo phì thì nên điều chỉnh chế độ ăn và sinh hoạt để giảm cân, nhưng không được giảm quá nhanh. Tránh làm việc quá sức, tránh lạnh hay ăn uống quá mức.

Gút xuất hiện do rối loạn chuyển hóa axit uric trong cơ thể. Biểu hiện là viêm ở các khớp, chủ yếu gặp ở nam (95%), tuổi trung niên (30-40 tuổi).

Cơn viêm cấp thường xuất hiện sau bữa ăn nhiều rượu thịt, chấn thương hoặc phẫu thuật, sau lao động nặng, đi lại nhiều, xúc động, nhiễm khuẩn cấp. Khoảng 50% có dấu hiệu báo trước như rối loạn tiêu hóa, nhức đầu, mệt mỏi, đi tiểu nhiều, sốt nhẹ. Khoảng 60-70% có biểu hiện viêm cấp ở khớp bàn ngón chân cái. Bệnh nhân đau dữ dội, ngón chân sưng to, phù nề, căng bóng, đỏ, sung huyết.

Đợt viêm kéo dài 1-2 tuần, đêm đau nhiều hơn ngày. Sau đó viêm nhẹ dần, đau giảm, bớt phù nề, da tím dần, hơi ướt, ngứa nhẹ rồi bong vảy. Sau khi khỏi, bệnh không để lại di chứng nhưng có thể tái phát vài lần trong năm.

Gút mạn tính có thể tiếp theo gút cấp tính, nhưng phần lớn bắt đầu từ từ, tăng dần, không qua các đợt cấp, biểu hiện bằng dấu hiệu nổi u cục (lắng đọng urat ở xung quanh khớp, đầu xương, sụn) và viêm đa khớp mạn tính (thường là các khớp nhẹ và vừa, rất dễ nhầm với bệnh viêm đa khớp dạng thấp). Bệnh cũng có biểu hiện ở cơ quan khác như thận (sỏi thận), thần kinh.

Đối với cơn gút cấp tính, bệnh nhân cần thăm khám và điều trị tại bệnh viện. Bệnh nhẹ hoặc gút mạn tính có thể điều trị tại nhà theo đơn của thầy thuốc. Để phát huy tác dụng điều trị, người bệnh gút cần có chế độ sinh hoạt, ăn uống hợp lý: Kiêng rượu, bia và các chất kích thích chè, cà phê; uống nhiều nước (2 lít/ngày), nên dùng các loại nước khoáng có chứa nhiều bicacbonat. Hạn chế thức ăn có nhiều axit uric như thịt, cá, tôm, cua, phủ tạng động vật, đậu đỗ; ưu tiên thức ăn có ít axit uric như trứng, sữa, phomat, ngũ cốc, các loại hạt, đường rau quả.

Món ăn bài thuốc: Ý dĩ 60 g, hồng táo 20 quả; nấu chín, ăn ngày một lần. Hoặc: Trứng cút 5 quả, hạt sen 30 g; nấu chín, ăn ngày một lần.

Theo Sức Khỏe & Đời Sống

Bị gout có phải kiêng đậu phụ không?

Hỏi : Bị gout có phải kiêng đậu phụ không? tmti...@

Trả lời : Các loại đậu nói chung như đậu tương (nguyên liệu làm đậu phụ, tàu hũ, sữa đậu nành..), đậu đen, đậu đỏ, đậu xanh… đều là những thực phẩm chứa nhiều purine. Acid uric là sản phẩm cuối cùng của chuyển hóa purine trong cơ thể. Ăn nhiều thức ăn có chứa nhiều purine sẽ dẫn đến tăng acid uric máu, nguyên nhân của bệnh gout.Do vậy, các bệnh nhân gout nên hạn chế ăn các loại đậu cũng như các thức ăn có chứa nhiều purine khác.

Bác sĩ Nguyễn Thu Giang

Dinh dưỡng trong phòng chống bệnh gút

Gút (Goute) là một bệnh rối loạn chuyển hóa có liên quan đến ăn uống do nồng độ acid uric quá cao trong huyết tương, dẫn đến lắng đọng các tinh thể urat (muối của acid uric) hoặc tinh thể acid uric. Nếu lắng đọng ở khớp (ở sụn khớp, bao hoạt dịch) sẽ làm khớp bị viêm, gây đau đớn, lâu dần gây biến dạng, cứng khớp. Nếu lắng đọng ở thận sẽ gây bệnh thận do urat (viêm thận kẽ, sỏi thận...). Bệnh thường gặp ở nam giới trên 40 tuổi, có những đợt kịch phát, tái phát nhiều lần.

Các biểu hiện của bệnh Gút :

- Viêm khớp cấp tính: Sưng và đau nhức khớp, nhất là khớp đốt bàn và ngón chân cái.

- Lắng đọng sạn urat: Thấy những cục hay hạt urat nổi dưới da, di động được dưới vành tai, mỏm khuỷu, xương bánh chè hoặc gần gân gót.

- Sỏi urat, acid uric trong hệ thống thận - tiết niệu.

- Viêm thận kẽ, suy thận.

- Xét nghiệm máu thấy acid uric tăng cao trên 400 micromol/lít.

Những người có nhiều nguy cơ bị tăng acid uric máu và mắc bệnh Gút :

- Có tiền sử gia đình bị bệnh Gút.

- Thừa cân và béo phì.

- Ăn uống không hợp lý, ăn quá nhiều thực phẩm chứa nhiều nhân purin.

- Nghiện rượu, nghiện cà phê.

- Dùng nhiều thuốc lợi tiểu như hypothiazid, lasix… có thể làm tăng acid uric và gây ra các đợt Gút cấp tính.

Chế độ ăn uống trong phòng chống bệnh Gút :

Cần nhận thức rằng ăn uống không hợp lý là một yếu tố thúc đẩy xuất hiện bệnh và tái phát bệnh. Nhiều bệnh nhân xuất hiện đợt sưng đau khớp dữ dội đến mức không đi lại được sau khi ăn nhiều hải sản, thịt chó, thịt thú rừng hay dạ dày, lòng lợn, tiết canh. Vì vậy chế độ ăn uống của bệnh nhân Gút có ý nghĩa rất quan trọng, có thể làm hạ acid uric huyết bằng cách hạn chế đưa nhân purin vào cơ thể (acid uric được tạo nên do oxy hóa nhân purin).

Chế độ ăn trong phòng chống bệnh Gút

- Đảm bảo bữa ăn có đầy đủ các chất dinh dưỡng ở tỷ lệ cân đối.

- Đảm bảo cân đối giữa các thành phần sinh năng lượng (đạm - béo - đường). Tỷ lệ năng lượng do các thành phần cung cấp nên là: Đạm: Béo: Đường = 12-15% : 18-20% : 65-70%.

- Ăn vừa phải các loại thức ăn chứa nhiều nhân purin như các loại thịt, hải sản, các loại phủ tạng động vật.

- Cần có sự lựa chọn và phối hợp nhiều loại thực phẩm đều đặn trong thực đơn hàng ngày.

- Không uống quá nhiều và kéo dài rượu, bia, cà phê.

- Luôn uống đủ nước.

Chế độ ăn trong điều trị bệnh Gút :

- Giảm bớt lượng đạm trong khẩu phần.

- Không nên ăn các thực phẩm có chứa nhiều acid uric (nhóm III): Óc, gan, bầu dục (cật), các loại phủ tạng, nước ninh xương, luộc thịt…

- Ăn vừa phải các loại thực phẩm có hàm lượng acid uric trung bình (nhóm II): Thịt, cá, hải sản, đậu đỗ… Các thực phẩm nhóm II chỉ nên ăn mỗi tuần 2-3 lần.

- Sử dụng các thực phẩm chứa ít acid uric trong chế biến bữa ăn hàng ngày như ngũ cốc, các loại hạt, bơ, mỡ, trứng, sữa, phomat, rau quả.

- Hạn chế các đồ uống gây tăng acid uric máu như rượu, bia, trà, cà phê.

- Ăn nhiều rau quả không chua. Hạn chế ăn các loại quả chua vì sẽ làm tăng thêm độ acid trong máu.

- Lượng đường, bột trong khẩu phần (gạo, bột mì, đường, bánh, kẹo, có thể sử dụng với tỷ lệ cao hơn người bình thường một chút).

- Uống các loại nước có tính kiềm: nước rau, nước khoáng.

- Uống đủ nước hàng ngày.

Để điều trị bệnh Gút hiệu quả, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa chế độ ăn uống và sử dụng thuốc chữa bệnh hợp lý theo đúng chỉ dẫn của bác sĩ.

Bảng hàm lượng purin trong một số loại thực phẩm (mg/100g).

Nhóm I

Nhân purin thấp(0-15mg)
Nhóm II
Nhân purin trung bình
(50-150mg)
Nhóm III
Nhân purin cao
(trên 150 mg)
Nhóm IV
Các loại đồ uống
Chứa nhân purin
Ngũ cốc
Dầu mỡ
Trứng
Sữa
Fomat
Rau, quả
Hạt
Thịt

Hải sản
Đậu, đỗ


Óc
Gan
Bầu dục
Cá trích
Nước dùng thịt
Nấm
Măng tây
Rượu
Bia
Cà phê
Trà


Ts: Đinh Thanh Liên

Ăn kiêng để tránh bệnh gout

 Bệnh gout được xem như là bệnh của vua, bởi thường chỉ làm khổ sở những ai ăn uống như quý tộc. Cách ăn kiêng của chúng ta cần tập trung vào các khẩu phần ăn giàu dinh dưỡng như thịt có màu đỏ giàu và thức ăn biển, còn về rau thì là đậu Hà Lan, nấm và bông cải (súp lơ).

Những thức ăn giàu dinh dưỡng, sẽ phá vỡ chất acid uric, làm cho gây viêm sưng, dẫn đến bệnh gout. Kết quả, những gì buộc người ta nghĩ đến là để tránh bệnh gout, người ta không ăn thức ăn có dinh dưỡng cao.

Người dẫn đầu nhóm điều tra của trường Y khoa Havard và Bệnh viện đa khoa Massachussetts, ông Hyon Choi nói: "Có nhiều hơn 2 ly sữa một ngày sẽ giảm bớt 50% nguy cơ bị gout. Những sản phẩm sữa thì thấp purine (purine là một hợp chất nitơ có cấu trúc phân tử 2 vòng, như adenine và guanine tạo thành các nucleotide của nucleic acid. Uric acid là sản phẩm sau cùng của chuyển hoá purine), nhưng lại cao protein. Và protein giúp chúng ta hạn chế mức độ tăng acid uric. Những kết quả chỉ ra rằng những sản phẩm sữa có độ béo thấp có thể ngăn ngừa gout khi nó mới vừa chớm bị".

Những thức ăn thịt và cá giàu protein thì đặc biệt có hàm lượng purine cao và có thể dẫn đến gout. Gà và những loại thịt "trắng" thì lại không tăng nguy cơ rủi ro dẫn đến bệnh gout. Ngay cả những loại rau giàu purines và cháo bột yến mạch cũng không tìm thấy nguy cơ tăng khả năng dẫn đến bệnh gout.

Theo Tuổi trẻ

Người bị bệnh gút nên ăn uống như thế nào?

Bệnh gút có thể được đề phòng và điều trị bằng nhiều phương pháp, trong đó vấn đề ăn uống đóng vai trò quan trọng.

Bệnh gút là một loại viêm khớp xảy ra đột ngột, thường vào ban đêm. Ai cũng có thể bị bệnh này, song hay gặp ở nam giới tuổi trung niên. Nữ giới trước tuổi mãn kinh hầu như không bị bệnh gút, nhưng sau tuổi 60, số nam và nữ mắc bệnh ngang nhau. Bệnh có tính di truyền, hay tái phát với biểu hiện sốt, sưng đau ở các ngón chân, nhưng đau dữ dội nhất là ngón chân cái. Đấy là gút cấp tính. Còn gút mạn tính chủ yếu gặp ở người già với nổi u cục ở quanh khớp, màng hoạt dịch, đầu xương, sụn… Nguyên nhân gây bệnh gút là do quá trình tổng hợp purin nội sinh tăng làm acid uric trong máu tăng. Khi acid này tăng quá cao (quá 7mg%) và tổng lượng acid uric trong cơ thể tăng quá 150.000mg thì nó sẽ lắng đọng ở một số tổ chức và cơ quan dưới dạng tinh thể: nếu lắng đọng ở màng hoạt dịch thì gây viêm khớp, lắng đọng ở thận gây sỏi thận, v.v…

Để phòng bệnh gút bộc phát, riêng về mặt ăn uống, người bệnh cần chú ý một số điều như sau:

1 - Tránh béo bệu, vì người béo phì dễ mắc bệnh gút do thường có mức độ acid uric cao. Với người đã béo, cần ăn ít mỡ và protein, thực hiện chế độ giảm cân dần dần có sự hướng dẫn của thầy thuốc, song không nên kiêng cữ quá mức, vì có thể làm cho các tế bào suy nhược và phóng thích acid uric khiến bệnh gút phát sinh.

2 - Không dùng thực phẩm có purin cao như: gan, thận, lách, óc, tôm, cua, trai, cá trích, cá mòi, thịt, nước thịt, cháo thịt, v.v. vì có thể làm tăng cao acid uric.

3 - Hạn chế các loại thực phẩm có purin như: măng, đậu khô, bông cải, nấm, bột yến mạch, đậu Hà Lan khô, rau dền, sò, ngũ cốc nguyên hạt, men rượu, cá, thịt, bò, gà, vịt…

4 - Uống nhiều nước, vì có thể giúp thải trừ acid uric dư thừa khỏi cơ thể trước khi nó gây hại đồng thời có thể làm giảm nguy cơ sỏi thận mà người bị bệnh gút hay mắc. Ít nhất mỗi ngày uống 5 - 6 ly nước mới có kết quả tốt. Có thể uống thêm dung dịch kiềm (bicarbonat Na 1.000ml/ngày), vì phản ứng viêm của màng hoạt dịch sẽ làm tăng chuyển hóa, sinh nhiều acid lactic tại chỗ và làm giảm độ pH, môi trường càng toan thì urat càng lắng đọng nhiều và phản ứng viêm càng liên tục kéo dài.

5 - Không uống rượu, bia, vì rượu có thể làm gia tăng sản xuất acid uric và cản trở sự bài tiết chất này khiến bệnh gút phát sinh. Bia cũng vậy vì chứa nhiều chất purin hơn cả rượu nho và rượu mạnh, v.v…

Bệnh gút gây đau khớp dữ dội, có thể làm mất khả năng vận động và đe dọa tính mạng người bệnh bởi các biến chứng thận, nhiễm khuẩn và suy kiệt. Bởi vậy, cần chủ động phòng bệnh phát sinh bằng mọi biện pháp, trong đó vấn đề ăn uống có vai trò quan trọng.

Bác sĩ Thuận Minh

Gút - "Bệnh thời sự" của những người lạm dụng ăn nhậu

Từ 30 tuổi trở lên, ở người đàn ông đã tiềm ẩn nguy cơ bệnh gút. Nếu trong sinh hoạt và dinh dưỡng, anh ta quá lạm dụng rượu bia và các thức ăn giàu chất đạm (như thịt chó, thịt dê, lòng lợn, tiết canh, hải sản...) thì triệu chứng bệnh sớm muộn cũng sẽ xuất hiện.

Tiến sĩ Trần Ngọc Ân, chủ tịch Hội Thấp khớp học Việt Nam, cho biết, nếu như 1 năm trước đây, gút chỉ chiếm 1% trong các bệnh về xương khớp thì hiện nay, nó đã chiếm đến 4-5% tổng số bệnh nhân phải nằm viện vì các bệnh này. Đây là một trong những bệnh mang tính thời sự do việc lạm dụng bia rượu và ăn nhậu gây nên.

Bệnh gút thường chỉ xuất hiện ở nam giới tuổi trung niên. Nguyên nhân gây bệnh là tình trạng thừa axit uric (trên 1 mg/1 cc máu) do cơ thể được cung cấp quá nhiều chất đạm. Lượng axit uric dư thừa sẽ kết lại thành các tinh thể đóng ở các khớp, gây đau.

Triệu chứng đầu tiên của bệnh gút xuất hiện sau các bữa ăn thịnh soạn với biểu hiện sưng đau ở một trong 2 ngón chân cái. Tình trạng này mất đi rồi lại tái phát; bệnh nhân đau rất dữ dội, đến mức không đi lại được. Các triệu chứng này có thể bị bác sĩ chẩn đoán nhầm là nhiễm trùng và cho dùng thuốc kháng sinh. Nếu không được chẩn đoán đúng và điều trị hợp lý, bệnh sẽ lan dần sang các khớp khác, gây biến dạng, lở loét và có khi làm mất chức năng vận động khớp. Lâu ngày, chất axit uric sẽ làm suy thận và có thể dẫn đến tử vong.

Mức độ chuyển biến bệnh cũng tùy theo ý thức giữ gìn của bệnh nhân. Nếu người bệnh tiếp tục ăn nhậu, kết cục xấu nhất có thể xảy ra chỉ trong vòng vài ba năm.

Hiện đã có thuốc chữa bệnh gút nhưng chỉ có tác dụng ở giai đoạn sớm. Thường chỉ nửa ngày hoặc một ngày sau khi uống thuốc, các triệu chứng bệnh sẽ rút hết. Nhưng nếu bệnh nhân không kiêng cữ đúng mực, bệnh sẽ tái phát. Điều đó có nghĩa là, đến nay chưa có thuốc nào điều trị được tận gốc căn bệnh.

Bệnh nhân gút có thể dùng thuốc Colchicin để chống viêm và Allopurinol để làm giảm nồng độ axit uric trong máu (theo chỉ định của bác sĩ). Tuy nhiên, điều quan trọng nhất vẫn là dự phòng bằng cách thực hiện chế độ dinh dưỡng hợp lý, tránh ăn thức ăn giàu đạm và uống nhiều rượu bia.

Tuổi trẻ

Gút và tăng uric trong máu (Phần 1)

Gút và tăng acid uric trong máu là gì ?
- Gút là một tình trạng y khoa được đặc trưng bởi tăng mức acid uric một cách bất thường trong máu, những đợt viêm khớp tái phát, lắng đọng những tinh thể acid uric cứng trong và quanh khớp, giảm chức năng thận và sỏi thận.
- Gút có đặc điểm duy nhất là một trong những bịnh được chẩn đoán thường xuyên qua khai thác bịnh sử. Nó thường liên quan đến di truyền về một sự bất thường trong quá trình xử lý acid uric trong cơ thể con người. Acid uric là sản phẩm phân hủy của purines có trong thức ăn. Một sự di chuyển bất thường của acid uric có thể gây ra viêm đau khớp (cơn gút), sỏi thận, và tắc những ống lọc trong thận (do những tinh thể acid uric) dẫn đến suy thận. Nói một cách khác bịnh nhân có thể có tăng acid uric trong máu nhưng không có viêm khớp hoặc vấn đề về thận. Chữ gút thường được sử dụng liên quan với những cơn viêm đau khớp.
Ai bị ảnh hưởng ?
- Xấp xỉ khoảng 1 triệu người Mỹ bị những cơn gút. Tỉ lệ nam:nữ là 9:1. Ở nam bịnh gia tăng sau tuổi dậy thì và đạt đỉnh điểm ở tuổi 75. Ở nữ thì thường xảy ra sau mãn kinh.
- Trong khi tăng acid uric chỉ ra có liên quan đến tăng nguy cơ về gút, nhưng mối liên hệ giữa 2 yếu tố này chưa rõ ràng. Nhiều bịnh nhân có tăng acid uric nhưng không phát triển gút trong khi những người khác có gút tái đi tái lại nhiều lần nhưng không có tăng acid uric trong máu. Dân số nam của Mỹ có đến 10% là tăng acid uric trong máu. Tuy nhiên, chỉ một số nhỏ những bịnh nhân này bị gút.
- Viêm đau khớp do gút thường là một cơn đau dữ dội với sự khởi phát nhanh của viêm khớp. Viêm khớp do sự kết tủa của những tinh thể lắng đọng acid uric trong dịch khớp và bao khớp. Viêm khớp xảy ra rất trầm trọng khi những bạch cầu làm lắng đọng những tinh thể acid uric và phóng thích những chất viêm gây đau, nóng và đỏ của khớp.
Những yếu tố nguy cơ đối với viêm khớp trong gút là gì ?
- Ngoài yếu tố vận chuyển bất thường acid uric trong máu là do di truyền, những yếu tố khác là béo phì, quá trọng, đặc biệt là những người trẻ, uống rượu trung bình đến nặng, cao huyết áp và chức năng thận bất thường. Những thuốc như lợi tiểu thiazide, aspirin liều thấp, niacin, cycloporine, thuốc lao (pyrazinamide và ethambutol) và những thuốc khác cũng làm tăng cao acid uric trong máu và dẫn đến bịnh gút.

Hơn nữa, những bịnh mà dẫn đến sự tạo thành acid uric thái quá trong cơ thể, ví dụ như bịnh bạch cầu, lymphoma, và những rối loạn về hemoglobin cũng có nguy cơ xuất hiện gút.

Một điều lý thú là những nghiên cứu mới đây chứng minh có sự gia tăng những người bị gút có mức hocmon tuyến giáp thấp.

- Trong những bịnh nhân với nguy cơ phát triển bịnh gút, những trạng thái dự đoán những cơn gút cấp. Ðó là tình trạng mất nước, chấn thương khớp, sốt, lặn lâu, uống nhiều rượu, và mới phẫu thuật. Những cơn gút khởi phát bởi phẫu thuật mới đây có thể liên quan với những thay đổi về cân bằng dịch trong cơ thể do quá trình uống nước không liên tục trong việc chuẩn bị và sau phẫu thuật.

Những triệu chứng của gút là gì ?
Khớp bàn-ngón chân cái là vị trí thường gặp nhất trong những cơn gút cấp. Những khớp khác cũng bị ảnh hưởng bao gồm cổ chân, đầu gối, cổ tay, ngón tay, khuỷu. Cơn gút cấp được đặc trưng bởi việc khởi phát nhanh những cơn đau trong những khớp bị ảnh hưởng, sau đó là sưng nóng, đỏ và đau. Ðau rất khủng khiếp vì thế ngay cả việc đắp mền ở vùng da có khớp viêm cũng không thể được.

Người bịnh có thể có sốt trong cơn gút cấp. Những cơn đau này thường lui dần và khỏi dù có hoặc không dùng thuốc. Trong những trường hợp hiếm, cơn gút có thể kéo dài vài tuần. Ða số những bịnh nhân gút sẽ bị những cơn gút tái phát qua nhiều năm.

Những tinh thể acid uric có thể lắng đọng trong những túi nhỏ, dịch quanh khớp. Những tinh thể urat này có thể kích thích trong bao khớp dẫn đến đau và sưng quanh khớp, được gọi là viêm bao khớp. Trong những trường hợp hiếm, gút dẫn đến một kiểu viêm khớp mãn giống như viêm đa khớp dạng thấp.

Trong bệnh gút mãn, có những nốt do tinh thể acid uric lắng đọng (tophi) trong những vùng mô mềm khác nhau của cơ thể. Chúng thường được tìm thấy nhất là những nốt cứng tròn quanh ngón tay, ở đầu khuỷu và quanh ngón cái, nhưng tophi có thể xuất hiện bất cứ nơi đâu trong cơ thể. Chúng cũng được tìm thấy trong những vùng ít gặp như tai, dây thanh âm, hoặc hiếm hơn là quanh tủy sống.

Viêm khớp trong gút được chẩn đoán như thế nào ?
- Gút được nghi ngờ khi bịnh nhân khai có những cơn viêm đau khớp lập đi lập lại ở khớp bàn ngón. Kế đó là khớp cổ chân và gối. Gút thường chỉ bị mỗi lần một khớp trong khi ở những bệnh khác như lupus, viêm đa khớp dạng thấp, thường bị nhiều khớp cùng một lúc.

- Test có giá trị nhất trong gút là xét nghiệm tinh thể acid uric lấy được khi chọc khớp. Chọc khớp được làm với gây tê tại chỗ, kỹ thuật vô trùng, dịch khớp được rút ra từ khớp viêm bằng cách sử dụng kim chích. Sau đó tìm tinh thể acid uric trong dịch khớp và tìm vi trùng. Những tinh thể acid uric giống như cây kim, óng ánh được tìm thấy dưới kính hiển vi có ánh sáng cực tím. Nó cũng được chẩn đoán bằng tìm thấy những tinh thể urate từ những chất lấy ra ở tophi và bao khớp viêm.

Một số bịnh nhân có tiền sử và triệu chứng của gút có thể được điều trị thành công và được chẩn đoán là gút mà không cần chọc khớp. Tuy nhiên, cần làm test để có chẩn đoán xác định vì có nhiều tình trạng viêm khớp giống gút. Nó bao gồm viêm khớp do những tinh thể khác gọi là giả gút, viêm khớp trong bịnh vẩy nến, viêm đa khớp dạng thấp và ngay cả nhiễm trùng.
X-quang đôi khi có ích và có thể chỉ ra sự lắng đọng những tinh thể tophi và tổn thương xương do viêm khớp nhiều lần. X-quang cũng có tác dụng theo dõi những ảnh hưởng của gút mãn tính lên khớp.
bacsigiadinh

Gút và tăng uric trong máu (Phần 2)

Gút được điều trị ra sao ?
- Việc ngăn ngừa những cơn gút cấp cũng quan trọng như việc điều trị viêm khớp cấp. Việc ngăn ngừa gút cấp liên quan với việc duy trì đủ dịch nhập, giảm cân, thay đổi chế độ ăn, giảm uống ruợu, và dùng thuốc giảm acid uric.
- Duy trì việc nhập nước đầy đủ cũng giúp ngăn ngừa những cơn gút cấp. Cung cấp dịch đầy đủ cũng giúp ngăn ngừa sự hình thành sỏi thận trong những bịnh nhân gút. Rượu có tính lợi tiểu làm cho bịnh nhân mất nước mà điều này góp phần tạo ra cơn gút cấp.Rượu cũng ảnh hưởng đến chuyển hóa acid uric và gây ra tăng acid uric.
Những thay đổi trong chế độ ăn giúp làm giảm acid uric trong máu. Vì purin bị biến đổi thành uric nên tránh những thức ăn có purin. Những thức ăn có nhiều purin bao gồm những loại giáp xác ( tôm, cua…), gan, não, thận động vật và bánh mì ngọt.
- Giảm cân có thể giúp ích trong việc giảm những đợt gút tái phát. Cách tốt nhất cho việc này là giảm chế độ ăn mỡ và thu nạp năng lượng kết hợp với chương trình tập thể dục đều đặn.
-Thuốc điều trị gút có 3 mặt. Ðầu tiên, thuốc giảm đau như acetaminophen (paracetamol) hoặc những thuốc giảm đau mạnh hơn được dùng. Thứ 2, thuốc kháng viêm như NSAIDS, colchicine, và corticosteroids được dùng để giảm viêm. Cuối cùng, thuốc làm phá vỡ sự chuyển hóa gây tăng acid uric và gút. Ðiều này có nghĩa là điều trị sao cho giảm acid uric trong máu.
- NSAIDS như indomethacin (Indocin) và naproxen(Naprosyn) là thuốc kháng viêm có hiệu quả trong gút cấp. Những thuốc này được giảm liều sau khi giải quyết viêm khớp. Tác dụng phụ bao gồm khó chịu bao tử, loét, ngay cả xuất huyết đường tiêu hóa. Những bịnh nhân có tiền sử dị ứng với aspirin hoặc polyp mũi nên tránh dùng thuốc NSAIDS vì sẽ có nguy cơ phản ứng phản vệ.
- Colchicine được dùng trong bịnh gút, thường bằng đường uống nhưng cũng có thể được cho bằng đường tĩnh mạch. Thuốc uống được cho mỗi một hoặc hai giờ cho đến khi cải thiện được triệu chứng hoặc bịnh nhân có tác dụng phụ như tiêu chảy nặng. Những tác dụng phụ thường khác của colchicine là buồn nôn và ói.
- Corticosteroids như prednisone là thuốc kháng viêm mạnh được dùng trong thời gian ngắn đối với bịnh gút. Chúng có thể cho trực tiếp bằng đường uống hoặc chích vào khớp viêm. Nó có thể cho với những bịnh nhân có vấn đề về thận, gan hay đường tiêu hóa. Sử dụng lâu dài corticosteroids thì không được khuyến khích vì tác dụng phụ trầm trọng của nó.
- Cùng với thuốc điều trị những cơn gút cấp thì những thuốc khác được dùng trong một thời kỳ dài để giảm mức acid uric. Hạ thấp mức acid uric trong máu là giảm nguy cơ gút tái phát, sỏi thận, bịnh thận cũng như giải quyết sự lắng đọng thành tophi.Thuốc làm thấp acid uric trong máu bằng cách hoặc làm tăng bài tiết nó qua thận hoặc làm giảm tạo thành acid uric từ purin trong thức ăn. Vì một số bịnh nhân có acid uric trong máu tăng nhưng không phát triển những cơn gút hoặc sỏi thận, vì thế có điều trị kéo dài với thuốc hạ thấp acid uric hay không tùy theo từng cá nhân cụ thể.
- Probenecid (Benemid) và sulfinpyrazone (Anturane) là thuốc thường được dùng để giảm acid uric bằng cách tăng thải acid uric qua thận. Trong một số trường hợp hiếm thì thuốc này có thể gây sỏi thận vì thế nó nên tránh dùng trong những bịnh nhân có tiền sử bị sỏi thận. Khi uống thuốc này nên uống thêm nhiều nước nhằm giúp thoát nhanh của acid uric ra khỏi đường niệu, tránh hình thành sỏi.
- Allopurinol(Zyloprim) hạ thấp acid uric trong máu bằng cách ngăn hình thành acid uric. Nó ngăn chặn việc biến đổi purin trong thức ăn thành acid uric. Những thuốc này nên cẩn thận trong những bịnh nhân có chức năng thận kém cũng như có nguy cơ phát triển phản ứng phụ như mẫn đỏ và tổn thương gan.
- Những thuốc hạ thấp acid uric như allopurinol (Zyloprim) tránh dùng cho những bịnh nhân đang có cơn gút cấp (trừ khi họ đang dùng nó rồi). Vì người ta chưa biết tại sao khi dùng thuốc này trong cơn cấp thì làm tình trạng viêm khớp trở nên tệ hơn. Tuy nhiên, những thuốc làm hạ acid uric trong máu thường dùng lúc tình trạng viêm khớp cấp đã được giải quyết. Còn nếu bịnh nhân đang dùng thuốc này rồi thì họ nên được duy trì ở liều đang dùng trong suốt thời gian có cơn gút cấp. Trong một số bịnh nhân tăng liều thuốc hạ thấp acid uric có thể thúc đẩy cơn gút cấp. Ở một số bịnh nhân giảm liều colchicine có thể ngăn ngừa được cơn gút cấp.
- Những cách làm tại nhà giúp giảm triệu chứng của cơn gút cấp bao gồm nghỉ ngơi, nâng cao chi có khớp bị viêm. Chườm đá có thể giúp giảm đau và giảm viêm. Bịnh nhân nên tránh dùng những thuốc có chứa aspirin vì chúng ngăn ngừa tiết acid uric.
Tương lai đối với gút và tăng acid uric trong máu ra sao ?
- Nhiều nghiên cứu đang tiếp tục phát triển trong nhiều lãnh vực liên quan với gút và tăng acid uric trong máu. Mới đây những nhà khoa học cho rằng, ăn nhiều protit động vật làm tăng nhẹ nguy cơ bịnh gút. Những nghiên cứu khác thì cho rằng chế độ ăn nhiều canxi giúp tránh được những cơn gút. Những thuốc mới làm gia tăng thải acid uric trong nước tiểu (như benzbromarone) đang được đánh giá trong những thử nghiệm lâm sàng trên bịnh nhân.
Việc áp dụng những thuốc này để điều trị những cơn gút cấp và mãn thì vẫn còn cần phải nghiên cứu thêm nữa. Những nhà khoa học sẽ tiếp tục phát triển các thuốc ít độc và hiệu quả hơn trong việc chống lại căn bệnh do "trừng phạt của tuổi tác gây ra" này.
Sơ lược về gút và tăng acid uric trong máu.
Viêm đau khớp của bịnh gút do sự lắng đọng những tinh thể acid uric trong mô khớp.
Xu hướng phát triển gút và tăng acid uric trong máu là do di truyền.
Gút và tăng acid uric có thể được thúc đẩy bởi béo phì, lên cân, uống rượu, cao huyết áp, bất thường về chức năng thận, và thuốc.
Cơn viêm khớp do thuốc có thể bị thúc đẩy bởi sự mất nước, chấn thương, sốt, ăn nhiều, uống nhiều rượu hoặc mới được phẫu thuật.
Hầu hết những test chẩn đoán xác định gút là tìm ra những tinh thể acid uric trong khớp, dịch và mô cơ thể.
Ðiều trị những cơn viêm khớp do gút khác với điều trị tăng acid uric trong máu.

bacsygiadinh.com